Một vài từ láy trong thơ chữ Nôm Nguyễn Khuyến
| On Th1108,2022(Ngày ngày viết chữ) Bài viết này giới thiệu với các bạn một số cách dùng từ láy/có dạng láy trong thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến.
Ngày ngày viết chữ chủ yếu giới thiệu những trường hợp từ đi thành cặp trong hai câu thơ, những trường hợp từ láy lẻ tẻ (không đăng đối) nếu có dịp sẽ bàn trong một bài khác. Từ có dạng láy ở đây hiểu là những từ nếu truy nguyên thì có thể không phải là từ láy, nhưng chúng có hình thức láy và theo cách hiểu/cách dùng đồng đại, chúng cũng có thể được xem/được dùng như từ láy.
MỌI NGƯỜI CŨNG ĐỌC
> Lời quê chắp nhặt – Từ ngữ trong thơ văn Nguyễn Du
> Bút chẳng tà – Từ ngữ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Hy vọng bài viết này có thể giúp ích chút chút cho các bạn trong việc học cách sử dụng và sáng tạo từ láy.
1. ‘Nghênh ngang’ võng lọng nhờ ông sứ,
‘Ngọng nghẹo’ văn chương giở giọng ngô.
(Bồ tiên thi)
2. Trong nhà ‘rộn rịp’ gói bánh chưng,
Ngoài ngõ ‘bi bô’ rủ chung thịt.
(Cảnh Tết)
3. ‘Loe xoe’ sấn lại dương đôi vế,
‘Ngứa ngáy’ không hề động nửa đuôi.
(Châu chấu đá voi)
4. Giọng khê ‘nồng nặc’ không ra tiếng,
Mắt lại ‘lim dim’ nhắp đã cay.
(Chế học trò ngủ gật)
5. Hàng quán người về nghe ‘xáo xác’,
Nợ nần năm hết hỏi ‘lung tung’.
(Chợ Đồng)
6. Cung quế ‘chờn vờn’ hương mới bén,
Vườn đào ‘thoang thoảng’ gió như nâng.
(Cua chơi trăng)
7. ‘Bảng lảng’ lòng quê khôn chợp được.
‘Mơ màng’ cuộc thế cũng cầm bằng.
(Đêm đông cảm hoài)
8. Tiếng dế kêu ‘thiết tha’,
Đàn muỗi bay ‘tơi tả’.
(Đêm mùa hạ)
9. ‘Nhấp nhoáng’ hạt trai ngờ hổ phách,
‘Mơ màng’ núc nác ngỡ vàng tâm!
(Đưa người làm mối)
10. Gió lùa cửa cống bèo ‘man mác’,
Trăng xỏ buồng trai bóng ‘phập phồng’.
(Gái goá than lụt)
11. Bể thánh ‘mênh mông’ nhờ cái ốc,
Rừng nho ‘lai láng’ bắt con ong.
(Học trò phụ công thầy)
12. Trên gác rồng mây ‘ngao ngán’ đợi,
Bên trời cá nước ‘ngẩn ngơ’ trông.
(Không chồng trông bông lông)
13. Phận tủi ‘nỉ non’ đàn bạc mệnh,
Duyên may ‘run rủi’ lưới Tiền Đường.
(Khuyên Từ Hải hàng)
14. Con ở ‘ngẩn ngơ’ nhìn mặt chủ,
Nhà thầy ‘tưng hửng’ mất đồ chơi.
(Mắc tay Hoạn Thư)
15. Tiếng sáo ‘vo ve’ chiều nước vọng.
Chiếc thuyền ‘len lỏi’ bóng trăng trôi.
(Nước lụt Hà Nam)
16a. Chậu thau rửa mặt, ‘tầm váo tầm vênh’,
Điếu sứ long đờm, ‘cóc ca cóc cách’.
16b. Râu ria ‘nhẵn nhụi’,
Mặt mũi ‘ngông nghênh’.
16c. Nón sơn úp ngực, ‘đi liểu đi liều’,
Bút thuỷ cài tai, ‘sớn sơ sớn sở’.
16d. Hạ bút xuống ‘tô tô dạm dạm’, mực trát đen sì;
Giở bài ra ‘đọc đọc ngâm ngâm’, son hoà đỏ chói.
(Phú ông đồ ngông)
17. Mùi thế thử chơi không ‘chếnh choáng’,
Giọng tình mới nhắp chửa ‘say sưa’.
(Tặng bạn mở ty rượu)
18. Mái tóc chòm đen, chòm ‘lốm đốm’,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc ‘lung lay’.
‘Nhập nhèm’ bốn mắt tranh mờ tỏ,
‘Khấp khểnh’ ba chân dở tỉnh say.
(Than già)
19. Năm gian nhà cỏ thấp ‘le te’,
Ngõ tối đêm sâu đóm ‘lập loè’.
Lưng giậu ‘phất phơ’ màu khói nhạt,
Làn ao ‘lóng lánh’ bóng trăng loe.
(Thu ẩm)
20. Số kiếp bởi đâu mà ‘lận đận’?
Sắc tài cho lắm cũng ‘lôi thôi’!
(Tổng vịnh Kiều)
21. ‘Trơn tru’ chẳng có còn ai cứ,
‘Lông lốc’ tha hồ để mẹ bôi.
(Trọc đầu)
22. Quyên đã gọi hè ‘quang quác quác’,
Gà* từng gáy sáng ‘tẻ tè te’.
(Về hay ở)
23. Một lá về đâu xa ‘thẳm thẳm’,
Nghìn nhà trông xuống bé ‘con con’.
(Vịnh núi An Lão)
24. Bóng thuyền ‘thấp thoáng’ dờn trên vách,
Tiếng sóng ‘long bong’ vỗ trước nhà.
(Vịnh nước lụt)
* Có bản chép “Gáy từng gáy sáng”.
Nguồn thơ:
– Nguyễn Khuyến – tác phẩm. Nguyễn Văn Huyền. NXB Tổng Hợp Tp.Hồ Chí Minh. 2002.
– Thơ Nguyễn Khuyến. NXB Kim Đồng. 2019.