Nhạn ngẩn ngơ sa – Từ ngữ trong thơ văn Nguyễn Gia Thiều
| On Th1201,2022
(Ngày ngày viết chữ) Bài viết này giới thiệu một số từ ngữ hay, đẹp trong thơ Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
Nguyễn Gia Thiều 阮嘉韶 (1741-1798), là một nhà thơ thời Lê Hiển Tông. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là Cung oán ngâm khúc 宮怨吟曲, thường gọi tắt là Cung oán. Tác phẩm dài 356 câu, làm theo thể song thất lục bát. Nội dung tác phẩm rất buồn, còn ngôn từ thì rất đẹp.
Bài viết này chủ yếu giới thiệu từ ngữ của Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán. Tên bài viết Nhạn ngẩn ngơ sa cũng trích từ Cung Oán:
Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa.
MỌI NGƯỜI CŨNG ĐỌC
>> Lời quê chắp nhặt – Từ ngữ trong thơ văn Nguyễn Du

[Cẩm tú – Đan thanh]
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.”
Hai câu này trích từ Cung oán, ý nghĩa cụ thể như sau:
1. Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
“Cẩm tú” 錦繡 là gấm thêu. “Cẩm” là gấm, như “cẩm nang” là túi gấm, “cẩm y” là áo gấm. “Cẩm” cũng dùng để chỉ cái gì đó đẹp đẽ, lộng lẫy. “Tú” là thêu, như “tú phòng” là buồng thêu, “tú cầu” là quả cầu thêu (xưa có tục ném tú cầu để kén chồng). “Tú” cũng có nghĩa là thêu hoặc vẽ nhiều màu sắc.
“Cẩm tú” là gấm thêu, cũng dùng để chỉ cái gì tươi đẹp, như “cẩm tú giang sơn” (giang sơn gấm vóc tươi đẹp), “cẩm tâm tú khẩu” (lòng như gấm, miệng như thêu, chỉ ý và lời đẹp). “Cẩm tú” cũng có thể dùng để chỉ văn chương hay, để khen người có tài văn chương.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý” nghĩa là câu thơ đẹp như gấm thêu, hơn cả người họ Lý. Lý ở đây là Lý Bạch – đệ nhất thi nhân đời Đường.
2. Nét đan thanh bậc chị chàng Vương
“Đan thanh” 丹青 là màu đỏ và màu xanh, cụ thể là “đan sa” 丹砂 và “thanh hoạch” 青雘 – hai chất làm màu để vẽ, nên “đan thanh” được dùng để chỉ hội hoạ hoặc là khen tài vẽ tranh khéo.
“Nét đan thanh bậc chị chàng Vương” nghĩa là tài vẽ tranh hơn cả chàng Vương. Vương ở đây là Vương Duy – một họa sĩ và thi sĩ nổi tiếng đời Đường.
Hai câu thơ trên khen tài làm thơ và vẽ tranh của nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc.

★ Giấc Nam Kha ★
“Nam Kha”, hoặc “Nam kha” (南柯), nghĩa đen là cành cây bổ về hướng Nam. “Kha – 柯” nghĩa là cành cây. (Xin phân biệt với chữ “kha – 疴” nghĩa là bệnh nặng, như từ “trầm kha – 沈疴” nghĩa là bệnh nặng lâu ngày.)
“Giấc Nam Kha”, cũng dùng “mộng Nam Kha”, “giấc hoè”, “giấc mộng hoè” xuất phát từ tích Thuần Vu Phần nằm mộng dưới gốc cây hoè trong “Nam Kha ký” của Lý Công Tá. “Tầm nguyên từ điển” của Bửu Kế giảng tích này như sau:
“Lý Công Tá đời Đường có làm bài Nam kha ký thuật chuyện Thuần Vu Phần nằm mộng đến nước Hoè An, vua nước ấy kén Phần làm phò mã, cho nhậm chức Thái Thú ở Nam Kha, hết sức vinh hoa phú quý. Sau bị địch quân đánh bại, công chúa mất, vua đem lòng nghi kỵ, đuổi về. Thuần tỉnh mộng thấy mình nằm dưới gốc cây hoè, trên đầu là một nhánh bổ về phía Nam, cạnh mình có một tổ kiến.
Thì ra Hoè quốc không gì khác hơn là cây hoè, quận Nam Kha là nhánh bổ về hướng Nam, còn tổ kiến có lẽ là quân địch đã đánh bại Thuần Vu Phần. Vì thế nên giấc hoè còn gọi là giấc Nam Kha. Mộng với thật lẫn lộn nhau.”
Từ tích ấy, người đời sau dùng “giấc hoè” hoặc “giấc Nam Kha” để chỉ những giấc mộng hão huyền, không có thật, cũng có thể dùng để chỉ giấc mộng, giấc ngủ thông thường (không nhấn mạnh tính chất hão huyền, viển vông), như trong bài “Trăng về thôn dã” mà bạn Duy An nhắc:
Đom đóm bay quanh trên ao bèo xa
Khi bao người dìu dịu giấc Nam Kha
Mộng triền miên say sưa dưới mái vàng
Ánh trăng khuất chìm vào rặng tre cuối làng.
Sau đây là một số câu thơ có dùng tích “Nam Kha”:
– “Loạn hậu cảm tác”, Nguyễn Trãi:
Tạp tải hư danh an dụng xứ,
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha.
卅載虛名安用處,
回頭萬事付南柯。
(Ba chục năm hư danh có dùng được gì,
Quay đầu lại, vạn sự phó cho giấc mộng Nam Kha.)
– “Truyện Kiều”, Nguyễn Du:
Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
– “Chữ nhàn bài 2” Nguyễn Công Trứ:
Bóng quang âm thấm thoát vụt qua,
Kiếp phù sinh chừng một giấc Nam Kha.
– “Dương Từ – Hà Mậu”, Nguyễn Đình Chiểu:
Bên hang có tấm đá hoa,
Khảm vào bốn chữ “Nam kha mộng sàng”.
– “Nữ trung tùng phận”, Đoàn Thị Điểm:
Đếm thử tuổi tám mươi đã quá,
Giấc Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.
– “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều có dùng từ “giấc Nam Kha” trong một đoạn thơ song thất lục bát rất hay rằng:
Mồi phú quý dử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!

[Miệng xang – Nghê thường]
“Dẫu mà tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.”
Hai câu trong Cung oán, ý nghĩa cụ thể như sau:
1. Miệng xang là miệng hát. Miệng xang đối ứng với tay múa.
Xang chính là xướng (唱), nghĩa là hát, trong các tổ hợp xướng ca, hát xướng,… Mối quan hệ giữa xang – xướng cũng thường gặp trong các trường hợp như tràng – trường, đang – đường, nàng – nương,…
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
Bắc phang chính là bắc phương.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa thanh ngang (xang) và thanh sắc (xướng) có thể tìm thấy trong các trường hợp như tư – tứ, tin – tín, tan – tán, than – thán,…
Trong bài Hòn vọng phu 1 của Lê Thương (được cho là lấy cảm hứng từ Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn) có câu:
Qua thiên san kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca xang rồi đi tiễn binh ngoài ngàn.
Ca xang chính là ca xướng, tức ca hát, mà một số trang không rõ nên đã điều chỉnh Vui ca xang thành Vui ca xong.
2. Nghê thường (霓裳), nghê là cầu vồng, thường là xiêm váy, nghê thường là xiêm y, áo váy có màu sắc của cầu vồng, thường dùng để chỉ xiêm y của thiên tiên, ngoài ra còn là tên gọi một điệu múa của tiên nữ trên cung trăng.
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng ý nói các tiên trên cung trăng nhìn nàng cung nữ múa hát đành xếp lại xiêm y mà chịu thua kém.
___________
“Cung oán ngâm khúc”, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy dẫn giải, 1994.
* Sẽ còn cập nhật.