NNVC | NGÔN NGỮ VI CHỈ

Ngày ngày viết chữ
Menu
  • Trang Chủ
  • Chuyện viết chữ
    • Kỹ-nghệ viết
    • Dùng từ đặt câu
    • Cổ mỹ từ
    • Học từ dân gian
    • Ngòi bút người xưa
    • Người Việt với tiếng Việt
  • Học viết chữ
  • Sự kiện chữ
  • Thư viện chữ
    • Sách Chữ viết
    • Sách Chữ đọc
  • Về chúng tôi
Ngày ngày viết chữ Menu chữ   ≡ ╳
  • Trang Chủ
  • Chuyện viết chữ
    • Kỹ-nghệ viết
    • Dùng từ đặt câu
    • Cổ mỹ từ
    • Học từ dân gian
    • Ngòi bút người xưa
    • Người Việt với tiếng Việt
  • Học viết chữ
  • Sự kiện chữ
  • Thư viện chữ
    • Sách Chữ viết
    • Sách Chữ đọc
  • Về chúng tôi

Home/Chuyện viết chữ/Dùng từ đặt câu/Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 1)
Chuyện viết chữ, Dùng từ đặt câu

Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 1)

Posted by  Nguyễn Thuỳ Dung | On  Th816,2024
Ngày ngày viết chữ | Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 1)

(Ngày ngày viết chữ) Ngày ngày viết chữ thực hiện loạt bài giải nghĩa một số từ Hán Việt mà chủ yếu là những từ thường dùng, hy vọng có thể giúp bạn đọc hiểu hơn về lớp từ này trong tiếng Việt.

Loạt bài này được chia làm hai phần, xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt. Phần 1 từ A đến M, bạn đọc xem tại đây. Phần 2 từ N đến Y, bạn đọc xem tại đây.

MỌI NGƯỜI CŨNG ĐỌC
>> Cổ mỹ từ – Những từ đẹp mà nay ít dùng
>> Sự thay đổi nghĩa của một số từ Hán Việt

★ Ba đào ★

“Ba đào”, từ Hán Việt, chữ Hán viết là 波濤, trong đó:

– Ba là sóng nhỏ. (Chữ “ba” cũng chỉ vật có hình sóng và chữ “ba” có nhiều cách dùng thú vị, để lúc khác mình nói thêm.)
– Đào là sóng lớn.

“Ba đào” nói chung là sóng, thường chỉ sóng dữ. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, “ba đào” là từ “để ví cảnh chìm nổi, gian nan”. Tầm nguyên Từ điển (Cổ văn học từ ngữ tầm nguyên) của Bửu Kế giảng nghĩa bóng của “ba đào” là “những cảnh phong trần, những nỗi vất vả”.

Ca dao Việt Nam có nhiều câu dùng từ “ba đào” rất hay:
1. Ba đào sóng gió chuyển lay,
Mà thuyền đến bến rõ tay anh hùng.

2. Công anh lên xuống ra vào,
Công dã tràng xe cát, sóng ba đào lượn đi.

3. Công dã tràng thường ngày xe cát,
Sóng ba đào, ai xét công cho.

4. Em nghiêng tai dưới gió
Anh kể nhỏ cho em rành
Đôi ta còn vương tơ mành
Đó chẳng đành, đây anh cũng gắng
Sóng ba đào, mưa nắng chẳng sao.

5. Khổ qua xanh, khổ qua trắng,
Khổ qua mắc nắng, khổ qua đèo,
Anh thương em làm giấy giao kèo,
Chớ đừng bỏ lửng, phận nghèo tủi thân.
Một chén rượu năm bảy người giao,
Anh chớ nghe ai sóng gió ba đào,
Em đây giữ niềm tiết hạnh,
Anh chớ lãng xao em buồn.

6. Sông sâu sóng bủa ba đào,
Người đi muôn dặm lúc nào về đây.


★ Bi hoan ★

“Bi hoan”, chữ Hán là 悲歡, trong đó:

– “Bi” là buồn bã, buồn th:ương, đ:au buồn, thương cảm, thảm thương. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “đau, khóc không có nước mắt gọi là bi”. Đây là chữ bi trong bi ai (悲哀), bi đát (悲怛), sầu bi (愁悲),…
– “Hoan” là vui vẻ, mừng vui, là chữ hoan trong hân hoan (欣歡), hoan hỉ (歡喜), hoan nghênh (歡迎),…

“Bi hoan” nghĩa là buồn bã và vui vẻ. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “bi hoan” là “thảm thương và vui vẻ”. Người ta thường dùng “bi hoan” để chỉ chung những buồn vui mà ta gặp trong đời. Từ này rất hay gặp trong văn thơ.

Nguyễn Công Trứ trong bài Chơi xuân kẻo hết xuân đi viết rằng:
Lại mang lấy lợi danh, vinh nhục,
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.

Cao Bá Quát trong bài Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn nhân tác Côn Sơn hành vân* viết rằng:
Chước chước quân mạc từ,
Nhân thế bi hoan bất đồng thì.

酌酌君莫辭,
人世悲歡不同時。
Tạm dịch:
Say sưa người lỡ sao đành,
Buồn vui có lúc mới thành thế nhân.

Cao Bá Nhạ trong Tự tình khúc thì viết:
Khuôn tạo hoá dẫu rằng phong sắc,
Nợ phù sinh phó mặc bi hoan.

“Phong sắc” tức là nhiều và ít, như “bỉ sắc tư phong” (Truyện Kiều) nghĩa là cái kia ít thì cái này nhiều.

Một bài thơ nữa mà mình cũng rất thích là bài Hơi đâu mà nghĩ của Nguyễn Bá Nghi, trong bài thơ có dùng từ “bi hoan” rằng:
Như chiêm bao, như mây nổi, như sương tan,
Cơn đắc táng bi hoan nằm đợi đó.

Đắc táng là được và mất.
___________
* Tên bài thơ có nghĩa là Nhân cùng bạn thơ Phan Long Trân chơi Côn Sơn làm bài ca Côn Sơn.


★ Cảm khái ★

“Cảm khái”, chữ Hán viết là 感慨, trong đó:

– “Cảm” là rung động, xúc động, động lòng như cảm giác (感覺), cảm xúc (感觸), cảm tình (感情). Chữ này còn có nghĩa là mắc phải, nh:iễm phải trong trường hợp cảm lạnh, cảm nắng, cảm gió, hoặc ta có thể dùng độc lập để chỉ tình trạng cơ thể bị ốm nhẹ do thời tiết như trong cách nói “bị cảm”, “bệnh cảm”. Xin phân biệt với chữ “cảm” mang nghĩa gan dạ, táo bạo như trong dũng cảm (勇敢), quả cảm (果敢).

– “Khái” là thương xót, thở than hoặc tức giận, như phẫn khái (憤慨) là tức giận, không bằng lòng. Đây cũng là chữ “khái” trong trường hợp khảng khái (慷慨) dùng để chỉ ý chí ngay thẳng, kiên cường. Xin phân biệt với trường hợp “khái” nghĩa là bao quát, tóm tắt trong đại khái (大概), khái quát (概括).

Cảm khái là rung động mà thương xót ngậm ngùi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “cảm khái” là “nhân cảm xúc mà động lòng thương”. Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên giảng “cảm khái” là “thương cảm ngậm ngùi”. Ví dụ: Cảm khái trước cảnh điêu tàn; Bài thơ cảm khái.

Trong bài Độ Dương Xá giang, vọng Đại Khánh chư phong, truy hoài cựu du (Qua sông Dương Xá, nhìn các ngọn núi Đại Khánh, nhớ những ngày đi chơi trước đây) của Phan Huy Ích có viết:
Trĩ lưu mỹ cảnh đăng lâm thiểu,
Lai khứ mang nhân cảm khái đa.

峙流美景登臨少,
來去忙人感慨多。
Tạm dịch:
Núi sông tươi đẹp hiếm khi xem,
Người bận tới lui cảm khái thêm.


★ Cáo chung ★

Cáo chung, chữ Hán viết là 告終, trong đó:

– “Cáo” là bảo cho biết, nói cho biết như báo cáo (報告), bá cáo (播告), quảng cáo (廣告). Cáo cũng có nghĩa là xin phép, thỉnh cầu như cáo lão (告老), cáo b.ệnh (告病) hay kiện tụng như tố cáo (訴告), cáo trạng (告狀). Đây cũng chính là chữ “cáo” trong tên tác phẩm Bình Ngô đại cáo (平吳大告).

– “Chung” là kết thúc, chấm hết như thuỷ chung (始終) là bắt đầu và kết thúc, l.âm ch.ung (臨終) là đến phút giây cuối cùng của cuộc đời.

Cáo chung là thông báo công việc đã xong, đã kết thúc, đã chấm dứt hoặc dùng để nói tới cái ch.ết, nói tới sự gì đó đã đến lúc kết thúc, như “mệnh số cáo chung”, “đã đến hồi cáo chung”.

Bài Thái Bình mại ca giả (Người hát rong ở Thái Bình) trong Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du có dùng từ “cáo chung” với ý nghĩa thông báo đã xong việc, trong câu ”Khước toạ, liễm huyền, cáo chung khúc“ (卻坐斂弦告終曲), nghĩa là “ngồi xuống, xếp đàn, nói rằng hát đã xong”.


★ Cẩn cáo ★

“Cẩn cáo”, chữ Hán viết là 謹吿, trong đó:

– “Cẩn” là thận trọng, kĩ lưỡng, làm việc gì mà để ý kĩ, không dám sơ suất thì gọi là cẩn, như cẩn trọng (謹重), cẩn thận (謹慎), bất cẩn (不謹), cẩn tắc vô ưu (謹則無憂). “Cẩn” còn có nghĩa là kính, cung kính, xin phép, dùng thể hiện sự khiêm nhường, như cẩn sớ (謹疏) là xin phép tâu bày, cẩn dĩ (謹以) là kính dâng.

– “Cáo” là báo cho biết, thưa cho hay, như báo cáo (報告), tố cáo (訴告).

“Cẩn cáo” (còn cách đọc khác là “cẩn cốc”) là xin thưa vậy, cung kính mà thưa vậy. Từ này thường được dùng để kết thúc một bài văn khấn hoặc văn tế, dùng để báo hiệu cho biết bài văn khấn hoặc văn tế đã kết thúc. 


★ Cật vấn ★

“Cật vấn”, từ Hán Việt, chữ Hán viết là 詰問, trong đó:

– “Cật” là hỏi cho cùng tận, truy hỏi, ngoài ra còn có nghĩa như cong queo, quanh co, khúc khuỷu hoặc là ngày mai (như “cật triêu” là sáng sớm mai).

Chữ cật – 詰 gồm bộ ngôn – 言 biểu ý và chữ cát – 吉 biểu âm. Ngôn 言 nghĩa là lời nói, liên quan đến lời nói. Chữ cát 吉 trong trường hợp này kỳ thực là tỉnh văn của chữ kết – 結, nghĩa là cuối cùng, kết thúc. Ngôn và kết (kết 結 lược bỏ bộ mịch 糹còn cát 吉) ý là hỏi cho cùng tận, hỏi cho tới cùng.

– “Vấn” là hỏi, tra xét, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “cái gì không biết đi hỏi người khác gọi là vấn”.

“Cật vấn” nghĩa là vặn hỏi, hỏi vặn, hỏi cặn kẽ, hỏi cho tới cùng, đôi khi có ý khiến người nghe khó trả lời. Từ này ngày nay có lẽ tương đối ít dùng, Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng ghi nhận là từ ít dùng.

Liên quan đến từ “cật”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh còn ghi nhận từ này có nghĩa là “nói chướng”, kiểu như nói khó nghe. Chẳng hạn thành ngữ “Cật dĩ vi trực” – 詰以為直, Đào Duy Anh giảng là “nói chướng mà cho là trực, giống trực mà không phải trực”. “Trực” tức là thẳng thắn (trong các trường hợp như “chính trực”, “cương trực”,…). “Cật dĩ vi trực” nghĩa là nói khó nghe mà cho là thẳng thắn, thực ra không phải là thẳng thắn mà chỉ là “nói chướng” mà thôi.


★ Chất vấn ★

Chất vấn, chữ Hán viết là 質問, trong đó:

–  “Chất” là gạn hỏi như đối chất (對質). Chất còn có một nét nghĩa khác quen thuộc hơn đó là vật thể như nguyên chất (原質), bản chất (本質), tính chất (性質). Từ điển Thiều Chửu giảng “cái bản thể của các vật đều gọi là chất, như khí chất 氣質 chất hơi, lưu chất 流質 chất lỏng”.

–  “Vấn” cũng là hỏi, tra hỏi như nghi vấn (疑問), thẩm vấn (審問), vấn đáp (問答).

Chất vấn nghĩa chung là hỏi. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng chất vấn là “hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ ràng”. Ta có một từ khác cũng mang nghĩa hỏi cho cặn kẽ, hỏi đến tận cùng nhưng hiện nay ít dùng đó là “cật vấn” đã được bàn ở trên.


★ Chí lý ★

Chí lý, chữ Hán viết là 至理, trong đó:

– “Chí” là đến, tới như tự cổ chí kim (自古至今) nghĩa là từ xưa đến nay, hoạ vô đơn chí (禍無單至) nghĩa là tai vạ không đến một mình. “Chí” còn có nghĩa là rất, vô cùng, hết mực, dùng để chỉ mức độ cao như chí thân (至親) là hết mực thân thiết, chí tôn (至尊) là cực kỳ kính quý.

– “Lý” nghĩa ban đầu là mài giũa cho ngọc được đẹp được sáng nên trong chữ Hán của chữ lý (理) có bộ ngọc (玉) chỉ đá quý. Từ hình ảnh đó mở rộng ra ta có nét nghĩa sửa cho đúng đắn, chỉnh cho ngay ngắn như trong chỉnh lý (整理). Mở rộng thêm nữa ta có “lý” dùng để chỉ những điều đúng đắn, lẽ phải như đạo lý (道理), chân lý (真理/眞理).

Chí lý là rất đúng, rất hợp với lẽ phải. Chí lý thường đi cùng với các từ liên quan tới lời nói như “câu nói chí lý”, “lời khuyên chí lý”, “Anh nói thật chí lý!”.


★ Cơ hàn ★

“Cơ hàn”, chữ Hán viết là 饑寒*, trong đó:
– “cơ” là đói;
– “hàn” là rét.

“Cơ hàn” nghĩa là đói rét, tỷ dụ người ngh.èo khó, thiếu ăn thiếu mặc. Thành ngữ chữ Hán có “cơ hàn giao bách” 饑寒交迫 để chỉ vừa đói vừa rét, tức là khốn khổ vô cùng (“bách” 迫 trong “bức bách”).

Từ “cơ” ở đây cũng chính là “cơ” trong “cơ cùng”, “cơ cực”, “cơ danh” (ham hư danh như là đói ăn), “cơ khát”, “cơ khổ”, “cơ khốn”, “tích cốc phòng cơ” (trữ ngũ cốc, lương thực để phòng khi đói).
___________
* Cũng viết 飢寒.


★ Cơ sở ★

Cơ sở, chữ Hán viết là 基礎, trong đó:

– Cơ là nền nhà, là chữ “cơ” trong cơ nghiệp (基業), cơ đồ (基圖), căn cơ (根基). Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “ở dưới cho vật gì đứng vững được đều gọi là cơ”. Xin phân biệt với “cơ – 機” trong các trường hợp khác như cơ hội, cơ khí hay “cơ – 肌” trong cơ thể và “cơ – 飢” trong cơ khát, cơ hàn.

– Sở là đá tảng dùng kê dưới chân cột, nên trong chữ có bộ thạch (石) nghĩa là đá. Đây là chữ “sở” trong trụ sở (柱礎), “trụ sở” nghĩa đen là cây cột chống nhà (trụ – 柱) và hòn đá tảng kê chân cột (sở – 礎), hiện nay dùng để chỉ nơi làm việc của một tổ chức, đơn vị.

Cơ sở là nền nhà và tảng đá kê chân cột, tức là nền tảng. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “cái nền để dựng nhà là cơ, hòn tảng để trồng cột gọi là sở”. Đây đều là những thứ quan trọng đóng vai trò cốt yếu khi dựng nhà nên cơ sở – nền tảng chính là cái để những thứ khác dựa theo đó mà phát triển.


★ Cước chú ★

Từ “cước chú” này mình thấy hay, nhưng mấy năm nay dường như trừ một số tác giả, dịch giả lớn tuổi thì ít thấy ai dùng.

“Cước chú”, chữ Hán viết là 腳注 (hoặc 腳註), trong đó:

– “cước” là cái chân, phần dưới cùng của một cái gì đó cũng gọi là “cước”, như “sơn cước” là chân núi, “trác cước” là chân bàn, “tường cước” là chân tường.
– “chú” là giải nghĩa, giải thích, giảng giải văn từ, thường dùng trong các từ “chú giải”, “chú thích”.

“Cước chú”*, theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh là “chú ở dưới bài văn, giải thích nghĩa hoặc thuyết minh những chữ, những câu ở trên bài”, tức là lời giảng giải, lời giải thích ghi ở cuối trang. Hiện nay thì hình như chúng ta quen dùng dạng tiếng Anh “footnote” luôn, hoặc là dùng “chú thích (ở) chân trang” chứ hiếm thấy dùng “cước chú”.

Ngoài ra, còn có từ “bàng chú” (旁注) dùng để gọi lời giải nghĩa, giải thích ở bên cạnh. Chữ “bàng” có nghĩa là bên cạnh, như “bàng quan” là đứng một bên mà xem, không tham gia, không can dự, không dính líu.
___________
* Cũng có từ điển ghi nhận cách dùng “chú cước”.


★ Cương lĩnh ★

“Cương lĩnh”, chữ Hán là 綱領, trong đó:

– “Cương” là giềng lưới, tức sợi dây lớn của lưới, nghĩa bóng chỉ những phần quan trọng, phần cốt lõi, như đại cương (大綱), kỉ cương (綱紀).

– “Lĩnh” là cái cổ áo, nghĩa bóng cũng chỉ những phần quan trọng, cốt yếu, như yếu lĩnh (要領) là điểm quan trọng. Đây cũng là chữ “lĩnh” trong các trường hợp thống lĩnh (統領), tướng lĩnh (將領). “Lĩnh” cũng đọc là “lãnh” mà ta quen dùng trong lãnh tụ (領袖), lãnh đạo (領導), lãnh địa (領地).

Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “giây (dây) to ở trong lưới là cương, cổ áo là lãnh” và nghĩa bóng chỉ “phần cốt yếu trong việc làm hay chủ não trong văn chương”.

Hiện nay, “cương lĩnh” được dùng để biểu thị những điểm quan trọng trong đường lối, mục tiêu trong một thời kì nhất định (thường là của các tổ chức chính trị), nét nghĩa “chủ não trong văn chương” mà Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh ghi nhận hầu như đã ít dùng.


★ Danh dự ★ 

Danh dự, chữ Hán viết là 名譽, trong đó:

– “Danh” là tên, cái dùng để gọi người hoặc vật là “danh”, như ẩn danh (隱名), báo danh (報名), biệt danh (別名). Ngoài ra, “danh” còn chỉ tiếng thơm, tiếng tăm, nổi tiếng như danh ngôn (名言), danh lam (名藍), danh gia (名家).

– “Dự” là lời khen, tiếng thơm như vinh dự (榮譽). Xin phân biệt với chữ “dự” 預 nghĩa là tham gia (tham dự 參預, can dự 干預)  hoặc làm trước, có sẵn (dự kiến 預見, dự liệu 預料, dự phòng 預防) và một số chữ “dự” khác. 

Danh dự nói chung có nghĩa là tiếng tăm tốt, tiếng thơm như “bảo vệ danh dự”, “đánh mất danh dự”, cũng có nghĩa là lời khen tặng (khi ai đó có được xem trọng hoặc có thành tích tốt, có tiếng tốt) như “ghế danh dự”, “cờ danh dự”.


★ Dĩnh ngộ ★

“Dĩnh ngộ”, chữ Hán viết là 穎悟, trong đó:

– Dĩnh nghĩa ban đầu là ngọn lúa (nên trong chữ có bộ hoà – 禾 chỉ cây lúa), về sau mở rộng nghĩa chỉ đầu nhọn của các vật như mũi d a o, mũi d ù i, ngòi bút, đầu bút lông, rồi tiếp tục mở rộng nghĩa chỉ những gì khác lạ, xuất sắc, vượt trội hơn người.

– Ngộ là biết, rõ, hiểu thấu, như tỉnh ngộ (醒悟), giác ngộ (覺悟), chấp mê bất ngộ (執迷不悟).

“Dĩnh ngộ” là thấu đáo hơn người, thường dùng để nói về trẻ em thông minh từ sớm.

Trong bài Hạ đường huynh đăng tường của Đoàn Huyên có câu:

Dĩnh ngộ tự thiên tư,
Phương ấu ký mẫn tuệ.

穎悟自天資,
方幼既敏慧。

(Phẩm chất thông minh từ sớm do trời phú cho,
Ngay từ nhỏ đã sáng trí.)

Nói thêm về từ “thiên tư” (天資). Từ này có nghĩa là phẩm chất trời cho, phẩm chất bẩm sinh đã có, thường chỉ người tài giỏi, thông minh hơn người. “Thiên tư” và “dĩnh ngộ” thường đi thành cặp với nhau.


★ Dư luận ★

Dư luận, chữ Hán viết là 輿論, trong đó:

– Dư, tự hình như bốn cánh tay nâng một cỗ kiệu – biểu thị bằng bộ 車 (xa – chiếc xe), nghĩa ban đầu chỉ thùng xe, hoặc cỗ kiệu, cũng dùng để chỉ xe cộ, mở rộng nghĩa chỉ việc chuyên chở, vận tải. Vì mặt đất cũng giống như một chiếc xe chuyên chở vạn vật, nên chữ dư này còn chỉ một vùng đất rộng lớn. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng: “Ðất rộng mà chở cả muôn vật, nên gọi đất là địa dư 地輿”. Xưa có cách gọi dư địa* chí (輿地志) là một dạng sách địa lý, ghi chép về đất đai, thổ nhưỡng, v.v. của một địa phương nào đó, như “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đồng Khánh dư địa chí” soạn theo lệnh vua Đồng Khánh. Dư còn mở rộng nghĩa chỉ số đông, đám đông, công chúng.

– Luận là bàn bạc, xem xét. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “bàn bạc, xem xét sự vật, rồi nói cho rõ phải trái gọi là luận”, như biện luận (辯論), bình luận (評論), lập luận (立論).

Dư luận là lời bàn bạc, suy xét của đám đông, dùng để chỉ sự đánh giá khen chê sai đúng của số đông đối với một sự việc, một vấn đề nào đó.

___________

*Xin phân biệt với dư địa (餘地) nghĩa là phần đất còn dư ra, phần đất chưa sử dụng tới, như trong cách nói “ngành công nghiệp còn nhiều dư địa phát triển”.


★ Đa đoan ★

“Đa đoan”, chữ Hán viết là 多端, trong đó:

– “Đa” là nhiều, dư, hơn, như đa cảm (多感), đa nghi (多疑), đa số (多數), đa thê (多妻), tối đa (最多). Có thành ngữ đa ngôn đa quá nghĩa là nói nhiều thì dễ sai nhiều.
– “Đoan” là ngay thẳng, đứng đắn, cũng có nghĩa là cái gốc, đầu mối, đầu mút, như cực đoan (極端) là hai đầu tận cùng của vật hay điều gì đó, dùng để nói khi ta quá nghiêng về một phía. Đây cũng là chữ đoan trong các trường hợp dị đoan (異端), đoan chính (端正), đoan trang (端莊).

Đa đoan nghĩa là nhiều mối, nhiều vụ. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng đa đoan là “lắm mối, lắm chuyện lôi thôi, rắc rối khó lường”. Người xưa cũng thường dùng đa đoan để chỉ sự biến hoá khó lường của tạo hoá, chẳng hạn:

1/ Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
2/ Bể khổ gần vơi bỗng lại tràn,
Nực cười trẻ tạo khéo đa đoan.

(Cảm tác, Trần Huy Liệu)
3/ Trong linh hồn một bông hoa
Hình như có cõi người ta đàng hoàng
Ở trong một phút lang thang
Có hồn dâu biển đa đoan cơ trời.

(Cảm ơn, Bùi Giáng)


★ Đạo mạo ★

“Đạo mạo”, chữ Hán viết là 道貌, trong đó:

– “Đạo” là đường, lối như độc đạo (獨道), địa đạo (地道), xích đạo (赤道), quỹ đạo (軌道). Đạo còn có nghĩa là lẽ phải, điều đúng đắn mà ta tuân theo như đạo lý (道理), đạo đức (道德), đạo hạnh (道行). Đây cũng là chữ đạo trong cách nói “phải đạo” mà hiện nay ta vẫn dùng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng chữ đạo “là một cái lẽ nhất định ai cũng phải noi đấy mà theo”.

– “Mạo” là gương mặt, nét mặt hoặc chỉ dáng vẻ bên ngoài như diện mạo (面貌), tướng mạo (相貌), mỹ mạo (美貌). Ta có thành ngữ dĩ mạo thủ nhân (以貌取人) có ý nghĩa tương tự thành ngữ trông mặt mà bắt hình dong.

“Đạo mạo” là vẻ mặt nghiêm nghị, đứng đắn, thường mô tả vẻ mặt của người lớn tuổi hoặc người có kinh nghiệm. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “đạo mạo” là “dung mạo kẻ học giả, dung mạo kẻ đáng làm thầy”. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì ghi nhận “đạo mạo” là “tỏ ra lúc nào cũng nghiêm trang” và cho ví dụ là “còn ít tuổi mà rất đạo mạo”, “vẻ mặt đạo mạo”. Hiện nay từ này thường được dùng như một tính từ.


★ Điềm nhiên ★

“Điềm nhiên”, chữ Hán viết là 恬然, trong đó:

– “Điềm” là yên ả, lặng lẽ, bình yên như điềm đạm (恬淡), điềm tĩnh (恬靜).
– “Nhiên” là như thế ấy, như vậy như đương nhiên (當然), dĩ nhiên (已然), tất nhiên (必然). Đây cũng là chữ “nhiên” trong tự nhiên (自然), thiên nhiên (天然) và cũng là chữ “nhiên” nghĩa là đốt cháy trong trường hợp nhiên liệu (然料). Ngoài ra chữ “nhiên” này còn vài nghĩa nữa nhưng hiện nay ít dùng.

“Điềm nhiên” là cứ bình yên như vậy, cứ tỏ ra bình thường như vậy, không mảy may khác thường. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng điềm nhiên là “yên lặng không nóng nảy”, “thờ ơ không lưu tâm”.

Trong bài thơ Bãi biển cuối hè, nhà thơ Huy Cận có dùng từ “điềm nhiên” như sau:
Bãi biển cuối hè dần vắng lặng
Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng
Mai đây ta vắng, đời không vắng
Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng.


★ Điểm xuyết ★

“Điểm xuyết”, chữ Hán là 點綴, thường dễ bị nhầm thành “điểm xuyến”.

– “Điểm” là chấm nhỏ, nét chấm, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “phàm cái gì dính líu vào một tí liền buông ra ngay đều gọi là điểm”.
– “Xuyết” là tô điểm, tô vẽ, cũng có nghĩa là vá lại, khíu lại. Từ này còn có âm là “chuyết” hoặc “chuế”, nhưng thường ta dùng âm “xuyết”. Có điều, âm “xuyết” cũng ít gặp trong cuộc sống nên có lẽ nhiều người nhầm thành “xuyến” là âm thường gặp hơn.

“Điểm xuyết”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “tô vẽ cho đẹp đẽ thêm”.

Cũng trong từ điển này, Đào Duy Anh có dẫn một thành ngữ khá thú vị là “điểm kim thành thiết – 點金成鐵”, nghĩa là chấm vào vàng mà lại hoá ra sắt, ý nói nguyên văn hay mà sửa lại thành ra dở, vốn đã tốt mà uốn lại thành ra xấu. Ngược lại của nó là câu “điểm thiết thành kim – 點鐵成金”.


★ Giai thoại ★

Giai thoại, chữ Hán viết là 佳話, trong đó:

– Giai là đẹp, tốt, hay, như giai âm (佳音) là âm thanh hay, giai nhân (佳人) là người đẹp.

– Thoại là nói, lời nói như đàm thoại (談話), đối thoại (對話) hoặc chỉ câu chuyện như thần thoại (神話). Các chữ “thoại” mà ta gặp hiện nay hầu như đều là chữ “thoại” này.

“Giai thoại” là câu chuyện hay, câu chuyện đẹp, chuyện vui. Hiện nay, ta thường dùng “giai thoại” để chỉ câu chuyện được lưu truyền và cũng thường gắn liền với một nhân vật nào đó có thật hoặc ta cho là có thật.

Trong bài Hoạ đáp Chi Phong Nguyễn khế (Hoạ đáp người bạn họ Nguyễn hiệu Chi Phong), Phan Huy Ích có dùng “giai thoại” để chỉ “chuyện vui”:

Vạn lũ ly tình kim thất tải,
Sổ bôi giai thoại thử Trùng dương.

萬縷離情今七載,
數杯佳話此重陽。

Tạm dịch:

Muôn mối tâm tình bảy năm xa,
Trùng dương vài chén chuyện vui mà.


★ Hàm tiếu ★

“Hàm tiếu”, chữ Hán viết là 含笑, trong đó:

– “Hàm” là ngậm, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng ngậm ở trong mồm không nhả không nuốt là hàm, cũng có nghĩa là chứa, đựng, như “hàm súc” (chứa bên trong không lộ ra, thường dùng để tả cái gì ngắn gọn mà chứa nhiều ý sâu sắc), “hàm huyết phún nhân” (ngậm máu phun người).
– “Tiếu” là cười, cũng có nghĩa là chê cười, như “ám tiếu” (cười thầm), “lãnh tiếu” (cười nhạt).

“Hàm tiếu”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là ngậm cười, cười nụ, tức là cười chúm chím, cười mỉm. Từ này còn dùng để chỉ đoá hoa chớm nở.

Bài Đêm khuya tự tình với sông Hương của Hàn Mặc Tử có câu:
Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu
Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ.

Bài hát Bên em mùa xuân của nhạc sĩ Hoài An có câu “Bờ môi hàm tiếu hé nở chiếc hôn đầu tiên”.


★ Hàn huyên ★

“Hàn huyên”, chữ Hán viết là 寒暄, trong đó:
– “Hàn” là lạnh, rét, là chữ “hàn” trong cơ hàn (飢寒), hàn đới (寒帶), thương hàn (傷寒). Xin phân biệt với chữ hàn (翰) nghĩa là lông cánh chim hoặc cây bút (do bút làm bằng lông chim), là chữ “hàn” trong từ “hàn lâm” (翰林 – rừng bút, ý nói văn nhân hội tụ đông như rừng); hoặc chữ hàn (韓) trong tên Hàn Quốc.
– “Huyên” là nắng ấm. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “Huyên là ánh mặt trời ấm (nắng ấm)”. Xin phân biệt với chữ huyên (喧) nghĩa là ồn ào trong huyên náo (喧閙); huyên (萱) nghĩa là cỏ huyên, là chữ huyên trong huyên đường (萱堂) chỉ người mẹ.

“Hàn huyên” dùng để chỉ việc hỏi thăm nhau, như hôm nay lạnh nóng thế nào, mở rộng chỉ sự thăm hỏi, trò chuyện tâm sự cùng nhau.

Truyện Kiều có câu:
Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.

Từ “hàn huyên” này không biết vì lý do nào đó mà rất thường bị dùng nhầm thành “hàn thuyên”. Tức là thay vì viết “hàn huyên tâm sự”, nhiều người viết thành “hàn thuyên tâm sự”.


★ Hiếu sinh ★

“Hiếu sinh”, chữ Hán viết là 好生, trong đó:

– “Hiếu” là ham, thích, là chữ hiếu trong hiếu kỳ, hiếu động, hiếu thắng,… Chúng ta chú ý phân biệt chữ hiếu này với chữ hiếu (孝) nghĩa là hết lòng biết ơn, thờ cha mẹ trong hiếu thảo, hiếu đạo, hiếu đễ,…
– “Sinh” là sống, sự sống, sống còn, nuôi sống,… là chữ sinh trong mưu sinh, an sinh, cánh sinh,…

“Hiếu sinh”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là ham sự sống, không nỡ sát sinh. Từ này thường dùng để nói đến việc quý trọng sinh mệnh, tránh việc tổn hại đến sự sống.

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi viết: “Thần vũ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm”, ta thường quen với bản dịch hơn là “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”.

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:
Khi chè chén, khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.

Nguyễn Đình Chiểu cũng có dùng từ này trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp:
Xưa rằng: Thầy thuốc học thông,
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh.


★ Khách sạn ★

Khách sạn, chữ Hán viết là 客棧, trong đó:

– “Khách” là người ở nơi khác đến, đối lại với chủ (主) như du khách (遊客), tiếp khách (接客), hành khách (行客). Đây cũng là “khách” trong trường hợp khách quan (客觀) có nghĩa là nhìn ở góc độ của người ngoài, đối lại với chủ quan (主觀) là nhìn ở góc độ của bản thân mình (quan – 觀 nghĩa là nhìn).

– “Sạn” là quán trọ. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “nhà quán để xếp hàng hoá và cho khách trọ gọi là sạn”. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng ghi nhận hai nét nghĩa tương tự là “nhà kho chứa hàng hoá” và “nhà chứa khách”.

Khách sạn là nhà chứa khách hay chính là quán trọ. 


★ Khách sáo ★

Khách sáo, chữ Hán viết là 客套, trong đó:

– “Khách” là người ở nơi khác đến, đối lại với chủ (主) như du khách (遊客), tiếp khách (接客), hành khách (行客). Đây cũng là “khách” trong trường hợp khách quan (客觀) có nghĩa là nhìn ở góc độ của người ngoài, đối lại với chủ quan (主觀) là nhìn ở góc độ của bản thân mình (“quan” – 觀 nghĩa là nhìn).

– “Sáo”, nghĩa ban đầu chỉ cái bao, cái bọc bọc bên ngoài vật gì đó như bút sáo (筆套) là cái bao đựng bút, thủ sáo (手套) là cái găng tay. Từ nét nghĩa ban đầu này mở rộng thêm ra, ta có “sáo” còn chỉ cái khuôn mẫu sẵn có bao bên ngoài mà ta chỉ việc áp dụng theo như khuôn sáo. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “Phàm bắt chước lượm lấy văn tự người khác hay nói đuôi người ta đều gọi là sáo. Như sáo ngữ 套語 câu nói đã thành lối.”. Hiện nay “sáo” có thể dùng độc lập trong các cách nói như “câu văn sáo”, “lời nói sáo” để chỉ lối nói (hoặc viết) theo khuôn mẫu có sẵn, lặp đi lặp lại, nom có vẻ hay ho nhưng giả tạo, vô nghĩa.

Khách sáo có thể hiểu là cái khuôn dành cho khách, tức dùng cách nói nom có vẻ lịch sự hay ho nhưng lại giả tạo, nhàm chán, tạo cảm giác xa cách như đang đối đãi với khách chứ không phải người thân.


★ Khai khẩn ★

“Khai khẩn”, chữ Hán viết là 開墾, trong đó:

– “Khai” là mở, mở ra, mở mang, đào ra, bới ra (như khai khoáng, khai mỏ). Chữ “khai” này còn nhiều nét nghĩa khác nữa, tần suất sử dụng trong tiếng Việt tương đối lớn.
– “Khẩn” là vỡ đất hoang. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “dùng sức vỡ các ruộng hoang ra mà cày cấy gọi là khẩn” (xin phân biệt với chữ “khẩn – 懇” có nghĩa là tha thiết, chân thành trong “thành khẩn”, “khẩn thiết”).

“Khai khẩn” là từ chỉ việc mở mang vùng đất hoang để trồng trọt, sinh sống. Một số từ gần nghĩa với “khai khẩn” là “khai hoang”, “khẩn hoang, v.v..

Ca dao có câu này rất hay, rằng:
Ruộng hoang khai khẩn còn thành,
Huống chi ruộng thuộc sao đành bỏ hoang.


★ Khải hoàn ★

“Khải hoàn”, chữ Hán viết là 凱還, trong đó:

– “Khải” vốn có nghĩa là khúc nhạc mừng chiến thắng của quân đội, sau chỉ chung việc hát mừng thắng trận hoặc thắng trận. Có từ khải ca (凱歌) chỉ hoặc tấu khải (奏凱) đều chỉ việc hát và đánh nhạc mừng thắng trận.
– “Hoàn” là trở về, trở lại, như từ hoàn tục (還俗) chỉ việc trở về cõi tục.

“Khải hoàn” nghĩa là quân đội đánh nhạc, hát mừng thắng trận trở về, chỉ chung việc thắng trận trở về. Chúng ta vẫn thường dùng “hát khúc khải hoàn”, “khải hoàn ca”,… Có một từ có nghĩa tương tự là khải toàn (凱旋) với chữ toàn cũng có nghĩa là trở lại.

Vũ Cố (một danh sĩ phò tá Lê Lợi) có bài Thắng trận, trong đó có câu:
Nhật gian lan tặc dạ ma kiếm,
Thắng trận đồng dân ca khải hoàn.

日間攔賊夜磨劍,
勝陣同民歌凱還。
Tạm dịch:
Ban ngày đánh giặc đêm mài kiếm,
Thắng trận cùng dân ca khải hoàn.

Nhà cách mạng Huỳnh Văn Nghệ trong bài Bà mẹ Việt Nam thì viết:
Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc
Của bình yên sáng lạng* tiếng chim quyên
Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát
Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.

___________
* Nguyên tác viết “sáng lạng”, không rõ có nhầm với “xán lạn” không.


★ Khoan hậu ★

“Khoan hậu”, từ Hán Việt, chữ Hán viết là 寬厚, trong đó:

– “Khoan” là rộng rãi, rộng lớn. Từ này có nghĩa gốc là nhà cửa phòng ốc rộng rãi. Từ điển Thiều Chửu giảng “khoan” là “nhà rộng, phàm vật gì đựng chứa còn có chỗ rộng thừa thãi đều gọi là khoan”. Cái gì rộng rãi thoải mái, không câu nệ cũng gọi là “khoan”. Đây chính là “khoan” trong khoan dung, khoan thai, khoan hồng, khoan thứ,…
– “Hậu” là dày dặn, nồng đậm, đối ngược với “bạc”. Đối xử tốt, không khắt khe cũng gọi là “hậu”. Từ điển Thiều Chửu giảng “phẩm bình sự vật cái nào tốt hơn, nhiều hơn, dày hơn đều gọi là hậu”. Đây chính “hậu”* trong hậu hĩnh, hồn hậu, nhân hậu, hậu tạ,…

“Khoan hậu”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “lòng rộng rãi, có đức dày”.

Từ này trước thường dùng để miêu tả các bậc quân vương, quan lại hoặc các bậc hiền tài mà có lòng nhân đức. Chẳng hạn như Lê Văn Hưu, Lý Tế Xuyên từng dùng từ này để nói về Sĩ Nhiếp.

Ngoài lề một chút, liên quan từ “khoan”, Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh có ghi nhận một thành ngữ là “khoan mãnh tương tế” – 寬猛相濟 – và giải thích rằng: “Khoan là tính nhu, mãnh là tính cương. Hễ làm việc lớn, như thống trị người, thì phải dùng cả hai mặt hoà bình và kịch liệt, tức lấy cách khoan mà giúp đỡ cho cách mạnh, lấy cách mãnh mà giúp đỡ cho cách khoan”.
___________
* Xin phân biệt với từ hậu – 後 là sau, phía sau, hậu – 后 là vợ vua, hoặc từ hậu – 候 chỉ thời gian, tình trạng trong “thời hậu”, “khí hậu”.


★ Khứ hồi ★

“Khứ hồi”, chữ Hán viết là 去回, trong đó:

– “Khứ” là đi, từ nơi này đi tới nơi kia ta gọi là khứ, như tống khứ (送去), mở rộng chỉ khoảng thời gian đã qua như quá khứ (過去).

– “Hồi” là về, quay về, trở về như hồi sinh (回生), hồi tỉnh (回醒), hồi ức (回憶).

“Khứ hồi” là đi và về, thường dùng để chỉ hai chiều di chuyển (tức đi trọn một vòng) của một thứ gì đó, thường gặp nhất là phương tiện giao thông. Ta vẫn thường nói “vé máy bay khứ hồi” hay “đi xe khứ hồi”.


★ Kịch tính ★ 

Kịch tính, chữ Hán viết là 劇性, trong đó:

– “Kịch” là quá, lắm, hết sức, chỉ mức độ cao như kịch liệt (劇烈), kịch độc (劇毒), nguy kịch (危劇). “Kịch” cũng dùng để chỉ một loại hình nghệ thuật sân khấu.

– “Tính” là đặc điểm, bản chất của người hoặc vật. Từ điển Hoàng Phê chia ra hai cách dùng khi “tính” làm hậu tố. Một là [tính từ + “tính”] để tạo thành tổ hợp từ, thường biểu thị thuộc tính cố hữu ở con người như lành tính, nóng tính, kỹ tính, cục tính. Hai là [danh từ + “tính”] để tạo thanh tổ hợp biểu thị những tính chất đặc trưng của danh từ đi trước như nhạc tính (樂性), độc tính (毒性), dược tính (藥性).

Kịch tính là tính chất của kịch, đặc điểm đặc trưng của loại hình nghệ thuật sân khấu kịch. Thông thường một vở kịch sẽ có những diễn biến, tình huống, xung đột, vì vậy ta thường sử dụng từ này để thể hiện một thứ gì đó có diễn biến, xung đột cao trào như “vở kịch nhiều kịch tính”, “đoạn phim chứa nhiều kịch tính” hay “trận thi đấu đầy kịch tính”.


★ Kiến văn ★

“Kiến văn” chữ Hán viết là 見聞, trong đó:

– “Kiến” là thấy, trông thấy, xem, chỉ sự hiểu biết. Đây là chữ “kiến” trong chính kiến (政見), định kiến (定見), thành kiến (成見), thiên kiến (偏見), ý kiến (意見). Xin phân biệt với chữ kiến (建) có nghĩa là xây dựng, thành lập, như kiến nghị (建議), kiến quốc (建國), kiến tạo (建造), kiến thiết (建設),…
– “Văn” là nghe, nghe thấy, cũng dùng để chỉ sự hiểu biết. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “phàm học thức duyệt lịch đều nhờ tai mắt mới biết, cho nên gọi người nghe nhiều học rộng là bác học đa văn (博學多聞)”. Có câu bách văn bất như nhất kiến (百聞不如一見) nghĩa là trăm lần nghe không bằng một lần thấy. Cũng xin phân biệt với chữ văn (文) có nghĩa là đường vằn, hoa văn (thông nghĩa với chữ văn 紋), là chữ viết, hay chức quan làm việc về văn tự thời xưa, như công văn (公文), hành văn (行文), văn chương (文章),văn nghệ (文藝), văn vật (文物).

“Kiến văn” là sự hiểu biết mà mắt thấy tai nghe. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giải thích “kiến văn” là từ cũ, nghĩa là “những điều mắt thấy tai nghe, những điều hiểu biết (nói tổng quát)”. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “kiến văn” là thấy và nghe, chỉ kinh nghiệm hay học thức. Nhà bác học Lê Quý Đôn có một bộ sách mang tên Kiến văn tiểu lục được biên soạn với tinh thần ghi chép những điều tai nghe mắt thấy.


★ Kim lan ★

“Kim lan” (金蘭), Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giải thích là “bè bạn tâm đầu ý hợp”, “giao tình bền vững như vàng (kim), khí vị hiệp nhau như hoa lan”.

Tầm nguyên từ điển của Bửu Kế thì giảng kỹ hơn, cụ thể như sau:
– Kim: vàng;
– Lan: hoa lan.
Từ này xuất phát từ câu: “Nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim; đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan” (二人同心,其利斷金; 同心之言,其臭如蘭) (Kinh Dịch – Hệ Từ thượng). Nghĩa là hai người đồng lòng, lợi (sắc bén) có thể cắt đứt được vàng; lời nói đồng tâm thơm như hoa lan. Nghĩa bóng dùng để chỉ tình bằng hữu tâm đầu ý hợp. Do đó mà có tài liệu giải thích “kim lan” là cách nói gọn của “đoạn kim xú lan”.
Bàn thêm về từ “xú”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “xú” là mùi, “kỳ xú như lan” là mùi nó như hoa lan và “bây giờ thì thông dụng để chỉ về mùi hôi thối” (như xú uế, xú khí,…).

Dưới đây là một số trường hợp dùng từ “kim lan” trong thơ ca Việt Nam để bạn tham khảo:

1. Quen khi vai cất tay lần,
Nào còn vẹn chữ kim lan đâu mà.

(47 điều giáo hoá triều Lê, Nhữ Đình Toản)
2. Bàn riêng mấy bạn kim lan,
Phường ta bất quá sàn sàn bực trung.

(Nhị Độ Mai, khuyết danh)
3. Duyên này đã thấy kim lan họp,
Thư kẻo còn truyền nhạn cá thông.

(Đất khách gặp bạn cũ, Lê Thánh Tông)
4. Kim lan là nghĩa cố tri,
Châu, Trần lại ước thọ kỳ vô cương.

(Giáo huấn ca, Nguyễn Đức Đạt)
5. Kim lan từ thủa nhỏ chơi bời,
Đôi lứa như ta được mấy người.

(Gửi bác Châu Cầu, Nguyễn Khuyến)


★ Ký thác ★

Ký thác, chữ Hán viết là 寄託, trong đó:

– Ký là gửi nên ta có tổ hợp “ký gửi*”. Ký còn có nghĩa là ở nhờ, ở tạm nơi nào đó như trong các trường hợp ký sinh (寄生) là sống nhờ, ký túc (寄宿) là ở nhờ, ở trọ.

– Thác cũng là gửi, nhờ người khác làm hộ cho thì gọi là thác, như trong uỷ thác (委託), phó thác (付託).

Ký thác là gửi gắm, có thể là những cảm xúc, nỗi niềm, tâm sự, hoài bão, v.v. vào trong một tác phẩm văn chương nghệ thuật như “ký thác nỗi niềm vào thơ ca”.

Nhà văn Bình Nguyên Lộc có tập truyện ngắn mang tên Ký thác.

___________

*Tương tự như trường hợp binh lính (binh 兵 nghĩa là lính), trợ giúp (trợ 助 nghĩa là giúp), kỳ lạ (kỳ 奇 nghĩa là lạ).


★ Kỳ cựu ★

“Kỳ cựu”, chữ Hán là 耆舊, trong đó:

– “Kỳ” là người già, 60 tuổi trở lên gọi là “kỳ”. (Xin phân biệt với “kỳ – 期” trong thời kỳ, “kỳ – 奇” trong kỳ dị, “kỳ – 棋” trong cầm kỳ thi hoạ, “kỳ – 歧” trong kỳ thị, “kỳ – 畿” trong kinh kỳ và một số chữ kỳ khác.)
– “Cựu” là xưa, cũ, người cũ, bạn cũ,…

Người già lớp cũ gọi là “kỳ cựu”. Ngày nay, “kỳ cựu” thường được sử dụng làm tính từ để diễn tả người làm việc gì đó lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong nghề. Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức giảng “kỳ hào – 耆豪” là bậc già cả và bậc đàn anh, “kỳ lão – 耆老” là hạng già, “kỳ lý – 耆里” là hạng kỳ mục và hạng lý dịch trong làng, “kỳ mục – 耆目” là bậc già cả đứng đầu trong làng.


★ Lam lũ ★

“Lam lũ”, chữ Hán viết là 襤褸 (cũng có thể viết là 藍褸 hoặc 藍縷 hoặc 襤縷), trong đó:

– “Lam” nghĩa gốc là tấm áo không có viền, nghĩa mở rộng là r.ách rưới, tả tơi, cũ r.ách.
– “Lũ” nghĩa gốc dùng để chỉ “y khâm” (衣襟), tức là vạt áo, tà áo trước, cũng dùng để chỉ áo rách (theo Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh), đồng thời còn có nghĩa là (quần áo) rách nát, rách bươm.

“Lam lũ” nghĩa chung chỉ quần áo rách rưới (thường nói áo quần lam lũ), nghĩa mở rộng chỉ sự nghèo khổ rách rưới và mở rộng hơn nữa thành cuộc sống vất vả cực nhọc.

Ca dao có câu rằng:
(1) Ăn mặc như em quần lam áo lũ,
Thiên hạ chê cười, thương anh vẫn cứ thương.
(2) Em là phận gái ở đồng,
Làm ăn lam lũ, em không lụa là.
Phấn son chẳng có trong nhà,
Trồng bông, em dệt vải ta em xài.

Trong bài thơ Áo trắng và mặt đường (thuộc trường ca Mặt đường khát vọng), Nguyễn Khoa Điềm viết:
Mẹ cha lam lũ tháng ngày
Chai chân gót rỗ.

Như vậy, từ nghĩa quần áo rách rưới, “lam lũ” đã có một bước mở rộng nghĩa rất lớn, trở thành từ hình dung cuộc sống vất vả, cực nhọc.


★ Luân lạc ★

“Luân lạc”, chữ Hán là 淪落, trong đó:

– “Luân” là chìm đắm, đây chính là chữ “luân” trong từ trầm luân. (Xin phân biệt với chữ “luân – 倫” trong luân thường hoặc “luân – 輪” trong luân phiên,…)
– “Lạc” là rơi rụng, là chữ “lạc” trong thất lạc, lạc hậu. (Xin phân biệt với chữ “lạc – 樂” trong lạc quan, an lạc hoặc “lạc – 絡” trong liên lạc, mạch lạc,…)

“Luân lạc” nghĩa là chìm đắm rơi rụng, ý nói cuộc sống nổi trôi vất vả.

Trong bài về từ “xuất xử” có dẫn câu “Luân lạc thiên nhai câu thị khách” (Chúng ta đều là khách luân lạc chân trời) của Nguyễn Trãi (1). Nguyễn Du cũng có một câu gần như vậy, nhưng là “Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc” (2), nghĩa là chớ nhìn chân trời mà than thân luân lạc.
___________
(1) Bài Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí.
(2) Bài Tân thu ngẫu hứng.


★ Linh lạc ★

“Linh lạc”, chữ Hán là 零落, trong đó:

– “Linh” nghĩa là héo rụng, rơi xuống, như phiêu linh (飄零)* là trôi nổi và rơi rụng, dùng chỉ cảnh đời trôi nổi nay đây mai đó. “Linh” còn có nét nghĩa nhỏ bé, lẻ tẻ, lặt vặt, là chữ “linh” trong các trường hợp linh tinh (零星), linh kiện (零件).

– “Lạc” cũng có nghĩa là rơi, rụng, như lưu lạc (流落), luân lạc (淪落).

Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “cỏ khô héo là linh, cây khô lá rụng là lạc”.

Linh lạc nghĩa đen chỉ hoa lá héo rụng, nghĩa bóng chỉ cảnh tan tác, tản mác, suy bại, như anh em linh lạc, gia đình linh lạc.

Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu:

Tín lai nhân vị lai,
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài.

信來人未來,
楊花零落委蒼苔。

Tin gửi đi người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.**

___________

* Cũng viết 漂零.

** Bản dịch của Đoàn Thị Điểm/Phan Huy Ích.


★ Miên viễn ★

“Miên viễn”, chữ Hán viết là 綿遠, trong đó:

– “Miên” là dài, kéo dài, như “liên miên” (連綿) là nối tiếp nhau, kéo dài không dứt, “triền miên” (纏綿) cũng là kéo dài dai dẳng, khó chấm dứt, ràng buộc quấn quýt, không gỡ ra được.
– “Viễn” là xa, xa xôi, là chữ “viễn” trong viễn tưởng (遠想), viễn cảnh (遠景), viễn vọng (遠望), “kính nhi viễn chi” (敬而遠之) là tôn trọng, tôn kính mà xa cách, không thân cận.

“Miên viễn” nghĩa là xa xôi lâu dài. Tiểu thuyết Con nhà giàu của Hồ Biểu Chánh có câu: “Từ khi sanh con ra rồi thì bà cứ lo mưu nầy tính kế nọ đặng làm cho con ngày sau có sẵn gia tài lớn mà hưởng, song chẳng hề khi nào bà dạy cho nó biết cách hưởng gia tài miên viễn”.

/ Thẻ: chuyện viết chữ, tiếng Việt, từ Hán Việt

Chia sẻ bài viết

About the Author:Nguyễn Thuỳ Dung

Bài viết liên quan

Người viết "hết mực" – Ngày ngày viết chữ

[Buổi học nhỏ] Người viết “hết mực” – Bàn về Kỷ luật viết và Chiến lược cải thiện kỹ năng viết

Th11182025
Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ | Ngày ngày viết chữ

Lá bỗng ngược cành – Từ ngữ trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ

Th11022025
Ngày ngày viết chữ | Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

Th10312025

Bài viết gần đây

  • Lá bỗng ngược cành – Từ ngữ trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ

    Lá bỗng ngược cành – Từ ngữ trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ

  • Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

    Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

  • Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

    Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

  • Nỗ lực từng chút, ngòi bút nở hoa – Vài suy nghĩ vụn vặt

    Nỗ lực từng chút, ngòi bút nở hoa – Vài suy nghĩ vụn vặt

  • Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

    Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

  • Thiên hạ hà nhân – Từ ngữ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

    Thiên hạ hà nhân – Từ ngữ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

  • Tổng hợp sách của Ngày ngày viết chữ (2025)

    Tổng hợp sách của Ngày ngày viết chữ (2025)


    CHÚNG TA LÀ NHỮNG CON CÁ NHỎ, MỖI NGÀY ĐỀU MỞ MANG.


    Đăng ký bản tin để mỗi khi có bài viết hữu ích hoặc sự kiện hay, Ngày ngày viết chữ sẽ gửi cho bạn qua e-mail.


    © Copyright 2017-2025 Ngày ngày viết chữ
    E-mail: ngayngayvietchu@gmail.com

    Chính sách riêng tư

    Kết nối trang