Lá bỗng ngược cành – Từ ngữ trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ
| On Th1102,2025
(Ngày ngày viết chữ) Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ là một khúc ngâm xúc động, giàu hình ảnh, được viết bằng chữ Nôm theo thể song thất lục bát – một thể thơ luôn có thể tạo cảm giác da diết, day dứt cho người đọc.
Tự tình khúc dài 608 câu được Cao Bá Nhạ viết khi bị giam trong ngục nhằm giãi bày tâm sự và nỗi oan ức của ông.
MỌI NGƯỜI CŨNG ĐỌC
>> Ngòi bút người xưa – Học hỏi câu hay ý đẹp trong các tác phẩm của người xưa.
Chẳng vì tâm khổ bỏ hoài quang âm
Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ có đoạn:
Thu nước mắt nghĩ câu thận độc,
Dong ngọn đèn ngâm khúc mạc ai.
Bút nghiên tiêu khiển ngày dài,
Chẳng vì tâm khổ bỏ hoài quang âm.
– “Thận độc” (慎獨), Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “cẩn thận ở lúc một mình, tức là cẩn thận ở chỗ tâm thuật”; Đại tự điển Hán-Việt của Trần Văn Chánh giảng là “dè chừng lúc ở một mình”. Đây là chữ “thận” trong cẩn thận (謹慎), thận trọng (慎重), chữ “độc” trong cô độc (孤獨), độc lập (獨立), độc hành (獨行).
“Thận độc” về cơ bản có nghĩa là kể cả khi ở một mình cũng phải giữ gìn hành vi, lời nói, suy nghĩ, kể cả khi xung quanh không có ai, kể cả khi không ai biết cũng phải tự mình giữ lấy giáo dưỡng. Đây là một sự tu dưỡng của bậc quân tử.
– “Mạc ai” (莫哀) nghĩa là đừng buồn. Chữ “mạc” này nghĩa là đừng, chớ, như mạc tiếu (莫笑) là đừng cười, mạc khốc (莫哭) là đừng khóc. Chữ “ai” có nghĩa là buồn, thương cảm, là chữ “ai” trong bi ai (悲哀), khả ai (可哀 – đáng thương).
– “Quang âm” (光陰), “quang” là ánh sáng, “âm” là bóng tối, chỉ ngày và đêm, ý nói thời gian. Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu: “Quang âm nhất trịch vô hồi qua, Tư mệnh bạc tích niên hoa (光陰一擲無回戈, 咨命薄惜年花 – Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, Tiếc quang âm lần lữa gieo qua).
Đại ý của đoạn thơ là tuy ở trong cảnh giam cầm, nhưng ông cũng nén nước mắt lại, nhớ đến câu “thận độc” của Nho gia mà giữ mình nghiêm cẩn, tự dặn lòng đừng buồn, chong đèn viết chút thơ ca giải sầu, không vì nỗi khổ trong lòng mà phí hoài thời gian.
Trời dành tuế nguyệt, đất dành điền viên
Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ có đoạn:
Ghê chân bước phong trần mới trải,
Nặng lòng ơn sơn hải chưa đành.
Nước mây mình biết cho mình,
Trời dành tuế nguyệt, đất dành điền viên.
Sách Các khúc ngâm thế kỷ XIX (Nguyễn Quảng Tuân sưu tầm, biên soạn) giảng:
– Phong trần: gió bụi, gió thổi bụi bay, tả nỗi khó nhọc khi đi đường. Đây ý nói đến tình cảnh gian khổ lúc đi ẩn trốn.
– Sơn hải: núi biển, ở đây ví công ơn cha mẹ nặng như núi và sâu như biển.
– Nước mây: nước chảy mây trôi, ý nói đến bước đường lang thang nay đây mai đó trong lúc đi ẩn tránh.
– Tuế nguyệt: năm tháng.
– Điền viên: ruộng vườn.
Câu “Trời dành tuế nguyệt, đất dành điền viên” ý nói trời còn cho sống (còn cho mình năm tháng thời gian) thì còn có đất dung thân (đất còn dành ruộng vườn cho mình, ý là còn đường sống).
Tuỳ ngộ nhi an
– Tuỳ 隨: theo, thuận theo, như tuỳ thời (隨時), tuỳ ý (隨意);
– Ngộ 遇: gặp, gặp phải, mắc phải, như tao ngộ (遭遇), tương ngộ (相遇);
– Nhi 而: mà, như tiếu nhi bất ngữ (笑而不語) là cười mà không nói;
– An 安: yên ổn, Từ điển Thiều Chửu giảng “không miễn cưỡng gì gọi là an”.
“Tuỳ ngộ nhi an” (隨遇而安) là một thành ngữ gốc Hán, nghĩa là tuỳ theo cảnh gặp phải mà thích ứng, gặp sao yên vậy, có thể thoả mãn, hoà hợp trong mọi hoàn cảnh, không cầu cạnh gì.
Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ viết:
Một phen cười với thế gian,
Rồi ra tuỳ ngộ nhi an xin đành.
Còn trong Bài ca lưu biệt, Huỳnh Thúc Kháng viết:
Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an,
Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn.
Câu sau có nghĩa là xưa nay, gặp lúc hoạn nạn thì phải tuỳ theo hoạn nạn mà xử trí.
(Sẽ còn cập nhật)

