“Thị phi nào đến cõi yên hà” và thái độ “mặc thế tình” của Nguyễn Trãi
| On Th813,2025
(Ngày ngày viết chữ) Nhân đọc câu thừa đề trong bài Ngôn chí số 3 của Quốc âm thi tập, chúng ta bàn đôi điều về thái độ “mặc thế tình” của Nguyễn Trãi.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
>> Quang khuê tảo – Từ ngữ trong thơ văn Nguyễn Trãi
>> Học cách viết mạch lạc, súc tích, có trọng tâm qua thư dụ hàng của Nguyễn Trãi
Từ câu thừa đề “Thị phi nào đến cõi yên hà”
Bài Ngôn chí số 3 trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi mở đầu bằng hai câu như sau:
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi yên hà.”
Sách Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm – Khảo cứu văn bản học so sánh của Kiều Thu Hoạch1 giảng:
– Thị phi: 是非, điều phải trái, chỉ dư luận khen chê, bàn tán.
– Cõi yên hà: cõi khói mây, chỉ vùng sơn thuỷ hoang vu, tịch mịch xa xôi nơi dân cư, thường chỉ nơi ở ẩn của người ẩn dật, lánh đời. Cả câu ý nói: Những điều khen chê phải trái làm sao có thể đến được nơi ta ẩn dật, lánh đời.
Từ “yên hà” (煙霞) này, cũng trong Quốc âm thi tập bài Thuật hứng số 24, Nguyễn Trãi dùng trong câu: “Thuyền chở yên hà nặng vạy then”2. Trong Ức Trai thi tập, bài Khất nhân hoạ Côn Sơn đồ, Nguyễn Trãi cũng có dùng, trong câu: “Yên hà lãnh lạc trường kham đoạn” (Khói ráng chiều quạnh quẽ, buồn đứt ruột).
Hình ảnh “am trúc hiên mai” ở câu đầu cũng là cảnh ở ẩn, làm bạn với trúc mai. Ngôn chí bài 6 cũng có hình ảnh tương tự:
“Án sách cây đèn hai bạn cũ,
Song mai hiên trúc một lòng thanh.”
“Song mai” là bên cửa sổ có hoa mai. “Hiên trúc” là bên hiên nhà có trúc. Hình ảnh “song mai” còn lặp lại ở Tự thán bài 12:
“Song có hoa mai đìa có nguyệt,
Án còn phiến sách triện còn hương.”
Đến thái độ “mặc thế tình” của Nguyễn Trãi
Từ câu thừa đề “Thị phi nào đến cõi yên hà”, nếu tiếp tục đọc Quốc âm thi tập, chúng ta sẽ bắt gặp thêm nhiều nhiều bài chứa những dòng thơ cùng một tư tưởng, chẳng hạn:
Ngôn chí bài 5 viết:
“Sự thế dữ lành ai hỏi đến,
Bảo rằng ông đã điếc hai tai.”
Hai câu này cho thấy cách ứng xử “giả điếc” của Ức Trai khi được hỏi đến thế sự.
Ở Bảo kính cảnh giới bài 13, Nguyễn Trãi cho rằng:
“Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt,
Chê khen mựa ngại tiếng chê khen.”
“Mựa” có nghĩa là đừng, chớ. Hai câu này ý nói nghèo khó hãy cứ bền lòng nghèo khó, có ai chê khen thì cũng chớ ngại.
Trong Bảo kính cảnh giới bài 28, Nguyễn Trãi cũng bày tỏ một cách ứng xử, một thái độ tương tự qua hai câu kết:
“Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.”
Thơ tiếc cảnh bài 11, Nguyễn Trãi viết:
“Rỉ bảo đông phong hời hợt ít,
Thế tình chớ tiếc dửng dưng thay.”
“Đông phong” là gió từ hướng đông thổi tới, tức là gió xuân, một thứ gió ấm. “Thế tình” tức là nhân tình thế thái, chỉ thói đời, lòng người. Hai câu này nghĩa là Nói nhỏ (rỉ) với gió xuân hãy bớt hời hợt, hãy mang khí ấm về với vạn vật, hãy cứ dửng dưng, chớ tiếc nuối chuyện nhân tình thế thái.
Bên cạnh giả điếc, chẳng ngại, chẳng quản khen chê hay dửng dưng với thế tình, Nguyễn Trãi có khi còn có thái độ “cam chịu”:
“Người cười dại khó ta cam chịu,
Đã kẻo lầm cầm lẫn mất lề.”
Đây là hai câu kết của Bảo kính cảnh giới bài 14. “Lầm cầm” nghĩa là lẫn lộn, có lẽ giống với “lẩm cẩm” mà hiện nay ta quen dùng. Hai câu này ý là nếu người có cười ta dại và khó (khó tức là nghèo) thì ta cũng đành cam chịu, để khỏi bị người ta coi mình lầm lẫn và mất hết lề thói.
Trên đây chỉ điểm qua vài cặp câu nằm rải rác trong các bài thơ thuộc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Có thể thấy, Nguyễn Trãi dùng nhiều hình ảnh, nhiều cách diễn đạt, nhưng tựu trung chỉ có một tư tưởng lánh đời, một tư tưởng “mặc thế tình” xuyên suốt. Đặt trường hợp bản thân là một người viết, cũng ta cũng có thể thử học cách dùng nhiều hình ảnh và cách diễn đạt để bày tỏ một tư tưởng thống nhất. Hy vọng chúng ta sẽ sáng tạo ra được nhiều vầng thơ, nhiều lời văn đặc sắc.
___________________