Thiên hạ hà nhân – Từ ngữ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
| On Th820,2025
(Ngày ngày viết chữ) Nhắc tới Nguyễn Du chúng ta thường nghĩ đến Truyện Kiều mà ít khi nghĩ tới thơ chữ Hán của cụ. Song, thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng là một mảng sáng tác cực kỳ đặc sắc.
Nội dung thơ chữ Hán Nguyễn Du thường biểu hiện nỗi niềm tâm sự của ông, những ưu sầu và tự giễu, những cảm khái và cảm hứng, cũng có khi là những cảnh vật mà đôi mắt thi nhân trông thấy trên hành trình vạn dặm. Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng ta có cảm tưởng như đang đọc nhật ký của ông vậy.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm ba tập là Thanh Hiên thi tập (khoảng 1785-1802), Nam trung tạp ngâm (khoảng 1805-1812) và Bắc hành tạp lục (khoảng 1813-1814). Hầu hết các bài thơ đều thấm đượm một nỗi u hoài sâu sắc. Nỗi buồn ấy ngấm vào lòng người đọc, có thể chúng ta không khóc thành tiếng, nhưng ít nhiều sẽ xót xa trong lòng, đến nỗi, Ngày ngày viết chữ thỉnh thoảng vẫn đùa rằng, nếu có một hôm nào đó bạn vui quá, muốn tìm một cái gì đó buồn bã chút để cân bằng cảm xúc, vậy thì hãy đi đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Để bạn đọc có thể cảm thơ chữ Hán Nguyễn Du dễ dàng hơn, Ngày ngày viết chữ biên bài này, giới thiệu một số từ ngữ thú vị trong thơ chữ Hán của cụ. Nội dung bài viết sẽ được cập nhật dần dần theo album Thiên hạ hà nhân trên fanpage Ngày ngày viết chữ.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Bài Tạp thi kỳ 2 của Nguyễn Du kết lại bằng hai câu này:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thì tâm kính tự như như.
葉落花開眼前事,
四時心鏡自如如。
Tạm dịch:
Lá rơi hoa nở việc trước mắt,
Bốn mùa tâm sáng vẫn như không.
“Diệp lạc hoa khai” là lá rơi hoa nở. Chữ lạc (落) có nghĩa là rơi, rụng, xin phân biệt với chữ lạc (絡) có nghĩa là quấn quanh, ràng buộc (trong liên lạc, mạch lạc,…) hoặc chữ lạc (樂) nghĩa là sung sướng, vui mừng (trong an lạc, cực lạc,…).
“Tứ thì” (cũng dùng “tứ thời) nghĩa là bốn mùa, chỉ cả năm, cũng có nghĩa là suốt ngày suốt tháng. Bài Thu chí1 cũng của Nguyễn Du mở đầu bằng câu: Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật (四時好景無多日), nghĩa là bốn mùa cảnh đẹp chẳng được bao nhiêu ngày.
“Tâm kính” nghĩa là lòng trong sáng như gương.
Đại ý hai câu thơ này là chuyện trước mắt đổi thay cứ như lá rơi hoa nở, cùng với năm dài tháng rộng, cõi lòng sáng suốt này vẫn thản nhiên như không.
Thế sự phù vân chân khả ai
Trong bài thơ Đối tửu, Nguyễn Du viết:
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.
百期但得終朝醉,
世事浮雲真可哀。
– “Bách kỳ” ở đây chỉ đời người. Người xưa có câu “Nhân sinh bách tuế vi kỳ” (人生百嵗為期), ý là đời người sống trăm năm là hạn.
– “Chung triêu” nghĩa là suốt ngày. Chữ “triêu” nghĩa là buổi sáng, buổi sớm mai. Hán Việt tự điển Thiều Chửu giảng “chung triêu” là từ sáng sớm đến lúc ăn cơm sáng xong. Nhưng “triêu” cũng dùng hoán dụ chỉ một ngày, nên “chung triêu” còn có thể chỉ một ngày, tương tự “chung nhật” (終日).
– “Phù vân” là đám mây nổi. Mây thì dễ tan, nên “phù vân” dùng để chỉ sự gì dễ đổi thay, không bền vững, người xưa nói “phú quý như phù vân”.
Hai câu thơ của Nguyễn Du có nghĩa là:
Đời người trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.
Tạm dịch:
Đời người trăm năm, mong say suốt,
Thế sự như mây, thật đáng buồn.
Bài Đối tửu nằm trong tập thơ Thanh Hiên thi tập và cũng như nhiều bài thơ khác của tập thơ này, Đối tửu nói chung là một bài thơ buồn.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Về hai câu thơ trứ danh trong bài Độc Tiểu Thanh ký:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。
Hai câu này, chúng ta quen hiểu là:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như.
Cái hay của hai câu này có lẽ là ở chỗ chữ “khấp” (泣). Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “khóc không ra tiếng gọi là khấp”. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng giảng “khấp” là “khóc, chỉ có nước mắt mà không ra tiếng”.
Phân biệt với “khấp” là “khốc” (哭). “Khốc” nghĩa là khóc to, khóc oà, khóc thành tiếng. Khi nói tới chữ Hán của hành động khóc, chúng ta cũng quen nghĩ tới chữ “khốc” này hơn. (Mối quan hệ “khốc ~ khóc” cũng giống như “độc ~ đọc”, “khố ~ kho”,…). Và thường khi đọc câu “Thiên hạ ai người khóc Tố Như” mà nếu không biết chữ Hán “khấp” (泣) có nghĩa là gì, chúng ta cũng sẽ khó thấy được sự tinh tế của cụ Tiên Điền khi dùng chữ.
Tố Như mất đến nay là hai trăm lẻ bốn năm, chẳng biết thêm một trăm năm lẻ nữa, thiên hạ có còn ai vì Tố Như mà lặng lẽ nhỏ lệ, mà nhỏ tiếng khóc thương không.
Thiên nhai
Độ Phú Nông giang cảm tác là một bài thơ ngũ ngôn bát cú của Nguyễn Du. Bài thơ kết thúc bằng hai câu như sau:
Du nhân vô hạn cảm,
Phương thảo biến thiên nhai.
遊人無限感,
芳草遍天涯。
Tạm dịch:
Ai đi da diết lòng đầy,
Cỏ kia ngan ngát, trời này xa xôi.
Từ “thiên nhai”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là chân trời, miền đất xa xôi. Thành ngữ “thiên nhai hải giác” 天涯海角 (cũng dùng “hải giác thiên nhai”) nghĩa là chân trời góc biển. Chữ “nhai” này có nghĩa bờ, bến, mở rộng chỉ biên giới, giới hạn. “Nhân dục vô nhai” 人慾無涯 nghĩa là lòng th:am muốn của con người không có bờ bến, không có giới hạn.
Chữ “biến” 遍 có nghĩa là khắp, khắp nơi, là chữ “biến” trong “phổ biến” 普遍, (xin phân biệt với chữ “biến” 變 nghĩa là thay đổi, trở thành, trong “biến hoá” 變化, “chuyển biến” 轉變,…).
“Biến thiên nhai” nghĩa là khắp cả, bát ngát cả chân trời. Câu “phương thảo biến thiên nhai” có thể sẽ gợi liên tưởng đến một câu thơ khác của Nguyễn Du mà chúng ta đã nằm lòng, là câu “Cỏ non xanh rợn chân trời” trong Truyện Kiều.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Trong bài thơ Khất thực, Nguyễn Du viết:
Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
文字何曾為我用,
饑寒不覺受人憐。
“Văn tự” ở đây chỉ chữ nghĩa, văn chương. “Hà tằng” là nào đã, nào có từng, tức là chưa từng, chớ hề.
“Cơ hàn” nghĩa là đ ó i rét. Chữ “liên” có nghĩa là thương xót. Chữ “liên – 憐” còn có âm là “lân”, thành ngữ “đồng b ệ n h tương liên” hoặc “đồng b ệ n h tương lân” (cùng chịu nỗi khổ giống nhau thì thương xót lẫn nhau) chính là chữ “liên/lân” này.
Hai câu thơ của Nguyễn Du có nghĩa là:
Chữ nghĩa nào đã dùng được gì cho ta,
Đói rét tới nỗi đâu ngờ phải để người khác thương xót.
Tạm dịch:
Chữ nghĩa ích gì với ta đây?
Đói rét đâu ngờ người xót lây.
____________________
- Nguyễn Du có hai bài thơ cùng tên là Thu chí, một bài nằm trong Nam trung tạp ngâm, một bài (được nhắc ở trên) nằm trong Thanh Hiên thi tập. ↩︎