Viên lâm tức sự – Bài thơ cảnh về vườn mà nhiều người mơ
| On Th218,2025
(Ngày ngày viết chữ) Nguyễn Phúc Ưng Bình (1877 – 1961) có một bài thơ về cảnh về vườn êm ả, sung túc, tên bài thơ là Viên lâm tức sự. Trong bài thơ có rất nhiều từ vựng khá là đặc sắc.
Nguyên văn bài thơ như sau:
園林即事
朝陽可愛又斜陽,
引興園林日月長。
古樹思培求碩果,
落花不掃戀殘香。
鶯歌燕語清騷客,
蝶往蜂來戲劇場。
東路西江宮一畝,
半開庭院半農桑。
Viên lâm tức sự
Triêu dương khả ái hựu tà dương,
Dẫn hứng viên lâm nhật nguyệt trường.
Cổ thụ tư bồi cầu thạc quả,
Lạc hoa bất tảo luyến tàn hương.
Oanh ca yến ngữ thanh tao khách,
Điệp vãng phong lai hý kịch trường.
Đông lộ tây giang cung nhất mẫu,
Bán khai đình viện bán nông tang.
Từng câu trong bài thơ đều là cảnh sắc điền viên nhẹ nhàng, vui tươi. Chúng ta hãy cùng thưởng thức một số từ ngữ trong bài thơ để hiểu thêm cảnh sắc này.
Triêu dương (朝陽): Triêu là buổi mai, buổi sớm, đối lại với tịch (夕) là buổi chiều, buổi tối. Dương nghĩa là mặt trời. Triêu dương là mặt trời ban mai, mặt trời vừa mọc. Có thành ngữ triêu dương phượng minh (朝陽鳳鳴) nghĩa là mặt trời buổi ban mai có tiếng chim phượng hót, ý nói “cảnh tượng đời thái bình” (theo Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh).
Tà dương (斜陽): Tà là nghiêng, xiên, vẹo, lệch, chéo. Tà dương là mặt trời ban chiều, khi ánh nắng chiếu nghiêng nghiêng. Tà dương cũng đồng nghĩa với tịch dương (夕陽).
Triêu dương khả ái hựu tà dương nghĩa là cảnh mặt trời lúc sáng sớm lẫn lúc chiều tà đều đáng yêu (khả ái).
Viên lâm (園林): Viên là vườn, lâm là rừng. Viên lâm là kiểu vườn như rừng, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng viên lâm là “vườn rộng, ở giữa làm đình đài để làm chỗ nghỉ”.
Nhật nguyệt (日月): Nhật nguyệt là mặt trời và mặt trăng, cũng dùng để chỉ ngày và tháng. Có thành ngữ nhật nguyệt như thoa (日月如梭) nghĩa là ngày tháng tựa như thoi đưa.
Dẫn hứng viên lâm nhật nguyệt trường nghĩa là gợi nên niềm vui thú sống với vườn tược suốt tháng ngày dài.
Thạc quả (碩果): Thạc là to lớn, đây cũng chính là chữ thạc trong từ thạc sĩ – học vị cấp cho người tốt nghiệp chương trình Cao học. Quả là trái cây. Thạc quả nghĩa là trái cây to.
Cổ thụ tư bồi cầu thạc quả nghĩa là lo vun bồi cho cây to, mong cầu được quả to.
Lạc hoa (落花): Lạc là rơi rụng, là chữ lạc trong thất lạc, lạc hậu. (Xin phân biệt với chữ lạc – 樂 trong lạc quan, an lạc hoặc lạc – 絡 trong liên lạc, mạch lạc,…) Lạc hoa nghĩa là hoa rụng, hoa rơi.
Lạc hoa bất tảo luyến tàn hương nghĩa là hoa rụng không quét (bất tảo) vì tiếc làn hương thơm còn sót lại.
Oanh ca yến ngữ (鶯歌燕語): Oanh và yến là hai loài chim. Ngữ, thông thường chúng ta hay dùng với nghĩa tiếng nói, lời nói, ngôn ngữ, nhưng ngữ cũng có thể dùng cho động vật – chim chóc, côn trùng, muông thú – với nghĩa là hót, kêu,…
Oanh ca yến ngữ khách thanh tao là một phép ví von, chim oanh chim yến ríu rít hót chính là những vị khác thanh tao đến chơi.
Điệp vãng phong lai (蝶往蜂來): Điệp là con bướm, phong là con ong, có từ phong khởi (蜂起) nghĩa là nổi lên như ong, ý nói sự gì đó (chẳng hạn như nghĩa quân) đông đảo, mạnh mẽ. Điệp vãng phong lai nghĩa là bướm qua ong lại, hàm ý một cảnh sắc ngập trời hoa.
Điệp vãng phong lai hý kịch trường cũng là một phép ví von, ví cảnh bướm ong rập rờn vui mắt, vui tai tựa như một rạp hát.
Đông lộ tây giang (東路西江): Đông lộ tây giang nghĩa là phía đông là đường, phía tây là sông.
Cung nhất mẫu (宮一畝): Cung ở đây ta hiểu là nhà cửa, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng nhà xây tường cao mà trên uốn cong xuống gọi là cung. Mẫu là đơn vị đo diện tích, tuỳ vào thời kỳ mà có cách tính khác nhau, nhưng có thể hiểu cung nhất mẫu là nhà ở trong khu đất rộng một mẫu.
Đông lộ tây giang cung nhất mẫu là cảnh nhà giữa khu đất rộng, phía đông là đường sá, phía tây là sông ngòi. Người xưa nói nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ, vì về vui thú điền viên nên không cận thị, nhưng ở đây cũng là cận giang, cận lộ, là một nơi cư trú lý tưởng.
Nông tang (農桑): Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giảng nông tang là nghề làm ruộng và nghề nuôi tằm. Chữ nông trong nông dân, nông nghiệp, nông thôn, chữ tang là cây dâu, như thành ngữ thương hải tang điền nghĩa là biển xanh hoá ruộng dâu.
Bán khai đình viện bán nông tang nghĩa là (khoảnh đất một mẫu ấy) nửa làm nhà cửa nửa làm nơi trồng trọt, nuôi tằm.
Bài thơ Viên lâm tức sự tuy là một bài thơ vui thú điền viên, nhưng đó là một cảnh điền viên sung túc, một cảnh điền viên ngập cảm giác vui vầy và hăng say lao động. Dưới đây là phần dịch thơ do Ngày ngày viết chữ vụng dịch:
Trước cảnh vườn rộng
Sớm chiều là cảnh nên thương,
Vườn tược vui thú, vấn vương tháng ngày.
Chăm cây lớn, mong trái đầy,
Hoa rơi chẳng quét hương bay cõi nào.
Yến oanh ríu rít thanh tao,
Ong bay bướm lượn ca trào của ta.
Này sông kia lộ cạnh nhà,
Nửa là mình ở, nửa là trồng dâu.
Hy vọng quý bạn đọc sẽ nắm bắt được nhiều từ hay, tìm được nhiều mạch suy tưởng thú vị từ bài thơ này.