Về từ “chung tình” hoặc “tình chung” trong tiếng Việt
| On Th1007,2024(Ngày ngày viết chữ) “Chung tình” (hoặc “tình chung”) là một từ thú vị. Chữ “chung” trong trường hợp này không phải là chữ “chung” trong “chung thuỷ” (hoặc cũng dùng “thuỷ chung”).
Có câu ca dao rằng:
“Anh đi đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?”
– Chung (鍾) danh từ là chiếc chén nhỏ đựng r/ượu, đựng trà nước (chung r/ượu, chung trà), động từ là hun đúc, un đúc, tụ lại.
– Tình (情) là những mối cảm xúc trong lòng phát động ra ngoài, thường chỉ cảm xúc yêu mến, muốn gắn bó. (Tình cũng có thể gồm mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn, gọi là thất tình.)
Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “chung tình” là “ái tình rất mật thiết như hình đúc nên”, Từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế giảng “chung tình” là “tình yêu chung đúc(*) vào một người, không xao lãng”.
“Chung tình” còn được dùng hoán dụ để chỉ người yêu. Nét nghĩa “chung tình” được dùng để chỉ người yêu này được Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi nhận và cho ví dụ là câu ca dao “Thò tay vuốt ng/ực chung tình, Nước sôi còn nguội, huống chi mình với tôi”. Hoặc như trong bài này thì câu ca dao số 2 bên dưới cũng là phép hoán dụ chỉ người yêu.
Ngoài “chung tình” còn có cách dùng “tình chung”, ý nghĩa tương tự nhau, đều đang muốn diễn tả một tình yêu hun đúc vào một người duy nhất. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng “tình chung” là “mối tình chung thuỷ dành cho một người duy nhất” còn “chung tình” là “có tình yêu dành cho một người duy nhất”.
Chữ chung – 鍾 còn được dùng thông nghĩa với chữ chung 鐘 và mang nghĩa là chiếc chuông, nên chung tình 鍾情 cũng còn được viết là 鐘情. Xin phân biệt với “chung” (終) có nghĩa là chấm hết, kết thúc, cuối cùng trong trường hợp thuỷ chung, chung kết, chung quy.
Bên cạnh “chung tình” còn có cách dùng “chung ái” (鍾愛), nghĩa cũng là tình yêu mến hun đúc lại.
Đọc thêm: Hai kiểu hẹn thề của người Việt trong ca dao
Ca dao ta có nhiều câu sử dụng từ “tình chung” và “chung tình” chan chứa cảm xúc như sau:
A. Chung tình:
1. Bao giờ cho mõ xa đình,
Hạc xa hương án chung tình mới xa.
2. Cầu ao ván yếu gập ghềnh,
Chân lần tay dắt chung tình đi qua.
3. Bước lên đất sụp bờ sình,
Lời giao ngôn tôi lỡ hứa, chung tình tôi phải ra đi.
4. Canh tư hạc đậu nhành mai,
Sương sa lác đác biết đâu mà tầm.
Canh năm nằm dựa phòng loan,
Mỏi mòn chờ đợi người bạn chung tình của anh.
5. Chuyện chung tình khăng khắng,
Cắn lấy hột cơm nhai.
Ngọn rau lang đỡ bữa,
Liễu với mai đừng lìa.
6. Cha già con dại chờ mong,
Anh đi vui thú chơi rong một mình.
Uổng công cha mẹ sinh thành,
Uổng công gánh chữ chung tình của em.
7. Dế ngậm sầu nhiều câu rỉ rả,
Nhớ bạn chung tình thức cả đêm đông.
B. Tình chung:
8. Thân tui thui thủi một mình,
Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng,
Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.
9. Một trăng được mấy Cuội ngồi,
Một thuyền chở được mấy người tình chung.
10. Lòng qua như sắt nói chắc một lời,
Bạc tiền chẳng trọng, chỉ trọng người tình chung.
11. Hôm nay sum họp trúc mai,
Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm.
12. Nhớ ai em những khóc thầm,
Năm thân áo vải, ướt đầm như mưa.
Nhớ ai, ai nhớ sao mờ,
Tình chung mà để thờ ơ sao đành.