NNVC | NGÔN NGỮ VI CHỈ

Ngày ngày viết chữ
Menu
  • Trang Chủ
  • Chuyện viết chữ
    • Kỹ-nghệ viết
    • Dùng từ đặt câu
    • Cổ mỹ từ
    • Học từ dân gian
    • Ngòi bút người xưa
    • Người Việt với tiếng Việt
  • Học viết chữ
  • Sự kiện chữ
  • Thư viện chữ
    • Sách Chữ viết
    • Sách Chữ đọc
  • Về chúng tôi
Ngày ngày viết chữ Menu chữ   ≡ ╳
  • Trang Chủ
  • Chuyện viết chữ
    • Kỹ-nghệ viết
    • Dùng từ đặt câu
    • Cổ mỹ từ
    • Học từ dân gian
    • Ngòi bút người xưa
    • Người Việt với tiếng Việt
  • Học viết chữ
  • Sự kiện chữ
  • Thư viện chữ
    • Sách Chữ viết
    • Sách Chữ đọc
  • Về chúng tôi

Home/Chuyện viết chữ/Dùng từ đặt câu/Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)
Chuyện viết chữ, Dùng từ đặt câu

Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

Posted by  Nguyễn Thuỳ Dung | On  Th1031,2025
Ngày ngày viết chữ | Giải nghĩa từ Hán Việt thường dụng (Phần 2)

(Ngày ngày viết chữ) Ngày ngày viết chữ thực hiện loạt bài giải nghĩa một số từ Hán Việt mà chủ yếu là những từ thường dùng, hy vọng có thể giúp bạn đọc hiểu hơn về lớp từ này trong tiếng Việt.

Loạt bài này được chia làm hai phần, xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt. Phần 2 từ N đến Y, bạn đọc xem tại đây. Để xem lại Phần 1 từ A đến M, bạn đọc xem tại đây.

★ Nguy nga ★

“Nguy nga”, chữ Hán viết là 巍峨, trong đó:
– “Nguy” là cao lớn, sừng sững, tả dáng núi to lớn, cao ngất.
– “Nga” cũng có nghĩa là cao lớn, là chữ “nga” trong tên núi “Nga Mi” (Trung Quốc).

“Nguy nga”, vốn có nghĩa chung chỉ dáng hình núi non cao lớn, sừng sững, sau thường được dùng để chỉ những công trình kiến trúc to lớn, đẹp đẽ, uy nghi.

Truyện thơ Nôm Nhị Độ Mai, phần “Hạnh Nguyên yết miếu Chiêu Quân” có câu:
Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,
Một toà thần tượng trên ngồi nghiễm nhiên.

“Thần tượng” ở đây có nghĩa là bức hình, bức tượng của vị thần được dân chúng thờ phụng.

Ma Văn Kháng trong Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương có viết: “Ông anh vợ tôi đòi được đất nhưng là đất ở chỗ khác, vì chỗ đất cũ của ông kẻ nọ đã ỷ thế xây một toà nhà nguy nga rồi”.


★ Nguyên cảo ★

Tầm nguyên từ điển của Lê Văn Hoè giảng: “Ngày xưa, người ta thường để những lá cỏ có mùi thơm ép vào các trang sách vở để sách vở có mùi thơm. Những lá cỏ đó bị ép khô, chữ Hán gọi là ‘cảo'”, viết là 稿 hoặc 藁 hoặc vài cách viết khác nữa.

Cũng theo Lê Văn Hoè, “sau người ta dùng chữ ấy để trỏ chung các sách vở” và “vì sách vở ngày xưa toàn là sách viết tay, nên ‘cảo’ là cỏ ép trong sách cổ, dùng để chỉ sách vở, cũng hàm nghĩa là sách viết tay”.

Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giảng “nguyên cảo” (原稿) là “bản văn nguyên thảo ra”, tức là bản sách, bản thảo tác giả viết ra lần đầu tiên, bản thảo gốc, có thể là bản viết tay, (“nguyên 原” ở đây nghĩa là vốn, gốc, ban sơ, lúc đầu).

Cùng nghĩa với “nguyên cảo” còn có “sơ cảo” (初稿), cũng chỉ bản thảo viết lần đầu. Còn bản thảo đã sửa xong, đã chốt gọi là “định cảo” (定稿).


★ Nhàn hạ ★

Nhàn hạ, chữ Hán viết là 閒暇, trong đó:

– Nhàn là rảnh rỗi, rỗi rãi như trong an nhàn (安閒), nhàn nhã (閒雅). “Nhàn” chữ Hán còn được viết là 閑.
– Hạ là rỗi rãi, thong thả, không có việc gì làm như hạ nhật (暇日) là ngày rảnh rỗi, dư hạ (餘暇) là thì giờ thong thả. Chữ này hiện nay ngoài “nhàn hạ” thì ít gặp trong các kết hợp khác. Xin phân biệt với hạ (夏) nghĩa là mùa hè, hạ (下) nghĩa là bên dưới như trong hạ cố (下顧), hạ đẳng (下等).

Nhàn hạ là rảnh rỗi, thong thả, thảnh thơi, không có việc gì làm hay không phải làm việc gì mệt nhọc.


★ Nhất trí ★

Trước có bạn hỏi Ngày ngày viết chữ chữ “trí” trong “nhất trí” là chữ “trí” nào, có phải là “trí” trong “trí tuệ” không.

“Nhất trí”, chữ Hán viết là 一致. Chữ “trí” có nghĩa là suy cho đến cùng, Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giảng “suy tìm đến chỗ cùng cực” gọi là “trí”. Ngoài ra, chữ “trí” này còn vài nét nghĩa khác nữa.

Chữ “trí” này không phải là chữ “trí” (智) trong “trí tuệ”. Chữ “trí” trong “trí tuệ” thì có nghĩa là hiểu rõ sự lý, hoặc là thông minh (cũng theo Từ điển Đào Duy Anh).

“Nhất trí”, có nghĩa đến cuối cùng thì toàn thể đều là một, tức là toàn thể giống nhau về một ý kiến hay quan điểm nào đó, không có mâu thuẫn, không có ngoại lệ.

Có câu “ngôn hành nhất trí” để chỉ lời nói và việc làm như nhau. Học thuyết “tri hành nhất trí” của Vương Dương Minh, theo Từ điển Đào Duy Anh thì “Tri giác là tri, thực hành là hành, đã tri được thì hành được, có hành được mới chứng được tri, tri hành không thể chia là hai việc”, đó chính là tính nhất trí của tri và hành.

Ngoài “nhất trí”, chữ “trí” này còn là chữ “trí” trong các trường hợp “cách trí” hay “cách vật trí tri” (một môn học tìm hiểu về sự vật tự nhiên), “trí mạng” (nhiều bạn quen dùng “chí mạng”), “cảnh trí”, “hưu trí”, v.v..


★ Phàm lệ ★

“Phàm lệ”, chữ Hán viết là 凡例, trong đó:

– “Phàm” nghĩa là bình thường, chung chung, đại khái. Đây là chữ “phàm” trong bất phàm (不凡); phàm phu (凡夫); phàm tục (凡俗); phi phàm (非凡); siêu phàm (超凡).

– “Lệ” nghĩa là quy định, lề lối, là tiêu chuẩn để chiếu theo hoặc so sánh. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng, “Lấy cái này làm mẫu mực cho cái kia gọi là lệ”. Đây là chữ “lệ” trong bất hợp lệ (不合例) nghĩa là không đúng với điều đã đặt ra; chiếu lệ (照例) y theo phép cũ mà làm, không có gì thay đổi, hay còn hiểu là làm việc qua loa cho xong, làm cho có; điều lệ (条例); luật lệ (律例); thông lệ (通例) đường lối chung vẫn được tuân theo.

“Phàm lệ”, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng là “bài đầu một quyển sách, nêu rõ cách biên-soạn và đại-ý nội-dung”, có ý nghĩa như phần lời nói đầu. Hiện nay ít sách dùng từ “phàm lệ”, Ngày ngày viết chữ giới thiệu để nếu bạn có đọc sách xưa xưa thì đỡ bỡ ngỡ ha.

Nói thêm một chút, xin phân biệt với chữ phàm trong “phàm lệ” với chữ phàm (帆) nghĩa là cánh buồm, là chữ “phàm” trong câu chúc “Nhất phàm phong thuận” (一帆風順), nghĩa là thuận buồm xuôi gió.

Còn chữ lệ trong “phàm lệ” thì cũng xin phân biệt với chữ lệ (麗) là đẹp đẽ như diễm lệ (艷麗) hay mĩ lệ (​​美麗) đều có nghĩa là đẹp sặc sỡ; hay chữ lệ (厲) là gắng sức, khuyến khích như khích lệ (激厲); hoặc chữ lệ (淚) nghĩa là nước mắt, như trong chữ huyết lệ (血淚) máu và nước mắt, chỉ sự đau khổ; chữ lệ (荔) trong lệ chi (荔枝) nghĩa là trái vải; chữ lệ (隸) với nghĩa phụ thuộc, là chữ lệ trong nô lệ (奴隸), lệ thuộc (隸屬).


★ Phạm trù ★

“Phạm trù”, chữ Hán là 範疇, trong đó:

– “Phạm” là cái khuôn đúc, mở rộng nghĩa dùng để chỉ giới hạn của sự vật. Đây cũng là “phạm” trong các trường hợp sư phạm (師範), phạm vi (範圍), mô phạm (模範).

– “Trù” nghĩa ban đầu là ruộng cấy lúa, về sau được dùng thêm nghĩa là loài, chủng loại. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “trù” là loài, Cơ Tử bảo vua Chu Vũ Vương những phép lớn của trời đất có chia làm chín loài, gọi là hồng phạm cửu trù 洪範九疇. “Hồng phạm cửu trù” được xem là một hiến chương để trị quốc.

Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng “phạm trù” là khái niệm khoa học biểu thị loại sự vật, hiện tượng hay những đặc trưng chung nhất của chúng. Hay nói cách khác, “phạm trù” là khái niệm mà thông qua đó ta giới hạn được sự vật, hiện tượng thuộc loại hay nhóm nào.


★ Phi lộ ★

“Phi lộ”, chữ Hán viết là 披露, trong đó:
– “Phi” là vạch ra, mở ra, xé ra, như phi lãm (披覽) mở ra mà đọc, có thành ngữ “phi vân kiến nhật” (披雲見日) nghĩa là vạch mây thấy mặt trời.

Xin phân biệt chữ phi trong “phi lộ” với chữ phi (妃) nghĩa là vợ vua, như cung phi (宮妃), phi tần (妃嫔); phi (非) nghĩa là không đúng, không phải, sai trái, như phi lý (非理), phi nghĩa (非義), thị phi (是非); phi (飛) nghĩa là bay như phi công (飛工), phi cơ (飛機), phi điểu (飛鳥), phi thuyền (飛船), thủy phi cơ (水飛機).

– “Lộ” danh từ là giọt sương, hạt móc, còn động từ là phơi trần, để hở, như bại lộ (敗露), biểu lộ (表露), tiết lộ (泄露), xuất đầu lộ diện (出頭露面).

Xin phân biệt chữ lộ trong “phi lộ” với chữ lộ (賂) là đem của đút lót như hối lộ (賄賂); chữ lộ (路) là đường đi như chánh/chính lộ (正路), lộ phí (路費), lộ tuyến (路線), thủy lộ (水路).

“Phi lộ”, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng là “Bày ra, trình bày đường lối, chủ trương của mình ở số báo đầu hay trang sách đầu”. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “phi lộ” là “mở bày ra, phát biểu hoặc tuyên bố các sự tình gì”. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì giảng gọn “phi lộ” là “lời mào đầu” và ghi chú đây là từ cũ. Một số sách xưa ở đầu quyển sẽ có một phần gọi là Lời phi lộ, có tác dụng như phần lời nói đầu chúng ta thường gặp trong sách hiện nay.


★ Quốc khánh ★

“Quốc khánh”, chữ Hán là 國慶, trong đó:

– “Quốc” là một đất nước. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “một nước, có thổ địa, nhân dân, chủ quyền, gọi là quốc”.
– “Khánh” là mừng, việc mừng, lễ mừng, như “khánh thành” là mừng công việc đã xong, “khánh thọ” là mừng được sống lâu. Chữ “khánh” này, tự hình vốn gồm một con hươu (chữ lộc 鹿) và một trái tim (chữ tâm 心) tạo thành, dần dần biến đổi mà có cách viết như hiện nay. Sách Tìm về cội nguồn chữ Hán của Lý Lạc Nghị giải thích “khi người xưa chúc mừng nhau có chuyện vui, thường tặng tấm da hươu để biểu thị tình cảm”, do đó mà chữ “khánh” có cấu tạo như trên.

“Quốc khánh” là dịp vui mừng chung của cả nước, là ngày lễ kỷ niệm việc vui mừng chung của đất nước.


★ Quý quân ★

“Quý quân”, chữ Hán viết là 季軍, chỉ người về vị trí thứ ba trong một cuộc thi, sau quán quân và á quân.

Chữ “quý”, Hán tự là 季, gồm chữ hoà 禾 là cây lúa, và bộ tử 子 là đứa trẻ. Hai chữ 禾 và 子 hợp lại thành chữ 季, nghĩa gốc là hoa màu còn non, còn chưa tới vụ.

Cũng do nghĩa đó mà mở rộng thêm lớp nghĩa là trẻ con, niên thiếu, đứa con út thì gọi là quý, như con gái út gọi là quý nữ, đứa em trai út gọi là quý đệ. Người xưa có cách gọi hàng thứ trong các anh em ruột theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là bá, trọng, thúc, quý (伯、仲、叔、季) hoặc mạnh, trọng, thúc, quý (孟、仲、叔、季).

Trong cách tính tháng thì có các cách gọi là mạnh, trọng, quý (孟、仲、季). Mạnh xuân là tháng đầu mùa xuân, trọng xuân là tháng giữa mùa xuân, quý xuân là tháng cuối mùa xuân. Cũng vì hết quý là qua ba tháng, nên người ta cũng dùng “quý” để gọi mùa. Một mùa, tức một quý, có ba tháng. Một năm có bốn mùa gọi là tứ quý.

Tương tự như vậy, trong một cuộc thi, ba vị trí cao nhất lần lượt là quán quân, á quân và quý quân. “Quân” vốn là từ chỉ binh lính, ở đây dùng để chỉ người. “Quán” là cầm đầu, dẫn đầu, người dẫn đầu gọi là quán quân. “Á” là vị trí thứ hai, kém hơn một chút thì gọi là “á”, nên á quân là người đạt được vị trí thứ hai. Và người đạt vị trí thứ ba, kém hơn hai vị trên thì gọi là “quý quân”.


★ Tài bồi ★

“Tài bồi”, chữ Hán viết là 栽培, trong đó:

– Tài là trồng trọt. Có câu “Hữu ý tài hoa hoa bất phát, vô tâm sáp liễu liễu thành âm” (有意栽花花不發, 無心插柳柳成陰), (tạm dịch: Cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu lên xanh).
– Bồi là vun xới, chăm bón, như “bồi bổ”, “bồi dưỡng”.

“Tài bồi” (theo Từ điển Hoàng Phê thì đã là từ cũ, ít dùng) nghĩa chung là trồng trọt vun xới, vun trồng, nghĩa mở rộng chỉ việc vun đắp, nuôi dưỡng, nâng đỡ, tạo điều kiện cho ai đó, hoặc cho vùng đất xứ sở nào đó. Bài Vè Đội Cấn(*) có câu:

Rồi ra làm lễ tế trời,
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang.

Ca dao Việt Nam thì có bài:
Nước còn quấn cát làm doi,
Thương nhau ta phải tài bồi cho nhau.
Tay cầm dĩa muối sàng rau,
Thuỷ chung thứ nhứt sang giàu mặc ai.

“Doi” là phần bãi ở biển hoặc sông hồ nhô ra mặt nước, được tạo thành từ cát và bùn đất do sóng bồi vào. Phần nhô ra, lồi ra gọi là “doi”, phần hõm vào, khuyết vào gọi là “vịnh”. Bài hát Em đi trên cỏ non của nhạc sĩ Bắc Sơn có câu “Em chưa qua mấy khúc sông chưa được nhìn doi vịnh chiều hôm” mà thỉnh thoảng có nơi viết nhầm thành “voi vịnh”.

Bài ca dao trên nói chung bảo là đã thương nhau thì phải biết vun đắp cho nhau, thủy chung với nhau vậy.

___________
(*) Đội Cấn (1881-1918) tức Trịnh Văn Cấn (tên thật là Trịnh Văn Đạt), thủ lĩnh của Khởi nghĩa Thái Nguyên chống chính quyền thực dân Pháp vào năm 1917.


★ Tài cán ★

“Tài cán”, chữ Hán viết là 才幹, trong đó:

– “Tài” là sự giỏi giang, là năng lực thiên phú, đặc biệt hơn người như tài năng (才能), tài nghệ (才藝), tài đức (才德). Xin phân biệt với chữ “tài” chỉ gỗ hoặc chỉ nguyên vật liệu nói chung như quan tài (棺材), tài liệu (材料), đề tài (題材); chữ “tài” chỉ của cải như tài sản (財產), phát tài (發財); chữ “tài” nghĩa là cắt vải, giảm bớt như chế tài (制裁)*.
– “Cán”, chữ này có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là giỏi giang, đảm đang, được việc như liêm cán (廉幹) là trong sạch và làm việc giỏi, cán viên (幹員) là “người quan lại làm việc siêng năng” (Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh). Chữ cán này cũng chỉ phần chính yếu, quan trọng như cốt cán (骨幹), hoặc chỉ phần chuôi, phần tay cầm của vật (cán d:ao, cán cờ,…).

“Tài cán” hiểu chung là giỏi giang, có tài, có năng lực để đảm đương công việc nào đó. Một điểm đáng chú ý là từ này thường được dùng với ý phủ định. Cụ thể, Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng “tài cán” là cách nói khái quát của “tài”, dùng trong khẩu ngữ, thường dùng kèm ý phủ định và cho ví dụ “Anh ta chẳng có tài cán gì đâu”, “Có giỏi giang, tài cán gì cho cam”.

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng “tài cán” là “cái tài, cái đức có thể đương nổi công việc gì” và cho ví dụ “Nó mà tài cán bao nhiêu!”. Có thể thấy, tuy Lê Văn Đức không nói “tài cán” thường dùng kèm ý phủ định, nhưng ví dụ cũng là một lời có ý phủ định. Quan sát thực tế cũng gặp nhiều cách dùng tương tự. Có vẻ như từ này thường (nhưng không bắt buộc) được dùng với ý phủ định như vậy.
___________
* “Chế tài” vốn có nghĩa là sửa sang cắt xén cho được vừa phải, sau mới được dùng chỉ biện pháp cưỡng chế nhà nước có thể áp dụng nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định của pháp luật.


★ Táo bạo ★

“Táo bạo”, chữ Hán viết là 躁暴, trong đó:

– “Táo” là vội vàng, hấp tấp, nóng nảy. Thiều Chửu giảng “vội tiến, xao động, tính nóng nảy gọi là táo”.

– “Bạo” là hung hăng, dữ dội, như tàn bạo (殘暴), thô bạo (粗暴), hoặc dùng để chỉ những gì đến nhanh, bất ngờ, đột ngột như bạo bệnh (暴病), bạo phát (暴發).

“Táo bạo” là vội vàng và hung hăng, thường dùng để mô tả hành động bất chấp, không ngần ngại trước nguy hiểm như “hành động táo bạo”, “quyết định táo bạo” hay “suy nghĩ táo bạo”.


★ Tâm khảm ★

Tâm khảm, chữ Hán viết là 心坎, trong đó:

– Tâm là quả tim, Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu giảng “đời xưa cho tim là vật để nghĩ ngợi, cho nên cái gì thuộc về tư tưởng đều gọi là tâm”.
– Khảm nghĩa đen là cái hố trên mặt đất, dùng để chỉ hố, vũng, trũng, chỗ hõm, chỗ lõm.

“Tâm khảm”, Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giảng là “cái lỗ ở trong quả tim”, nghĩa bóng là “chỗ sâu kín trong lòng”. Từ này dùng rất nhiều trong văn chương và chủ yếu dùng nghĩa bóng.


★ Tận tuỵ ★

“Tận tuỵ”, chữ Hán viết là 盡瘁, trong đó:

– Tận là hết, cạn, không còn gì nữa, đem hết sức ra, dốc hết tất cả, như “tận tâm” là hết lòng, “tận lực” là hết sức.
– Tuỵ là nhọc nhằn, lao khổ, mệt nhọc.

“Tận tuỵ” là từ chỉ làm việc gì mà dùng hết lòng hết sức, không nề hà gian khổ, không quản mệt nhọc. Ta thường nói “cúc cung tận tuỵ”, tức là cúi gập thân mình xuống (“cúc 鞠” là cúi, khom, “cung 躬” là thân mình) và chịu đựng khó nhọc, ý nói hết lòng phụng sự.

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong có câu:
Chức phong Đô đốc Nguyên nhung,
Cúc cung tận tuỵ liều cùng quân vương.


★ Thê Húc ★

“Thê Húc”, chữ Hán là 棲旭, trong đó:
– “Thê” là đậu xuống, nghỉ lại, dừng lại, lưu lại;
– “Húc” là ánh sáng lúc mặt trời mới mọc, ánh mặt trời buổi sớm mai, có từ “húc nhật” để chỉ mặt trời mới mọc.

“Thê húc” là chiếc cầu ở hồ Hoàn Kiếm, thân cầu màu đỏ hướng về phía Đông – phía mặt trời mọc – và tên cầu nghĩa là nơi ánh mặt trời sớm mai đậu xuống.


★ Thị phi ★

“Thị phi”, chữ Hán viết là 是非, trong đó:

– thị là phải, là đúng, là chính xác;
– phi là trái, là sai, là không phải, không phù hợp.

“Thị phi” là từ chỉ dư luận khen chê. Truyện Kiều đoạn Hoạn Thư biết chuyện Thúc Sinh và Thúy Kiều có câu rằng:
Chồng tao nào phải như ai,
Điều này hẳn miệng những người thị phi!

Người thị phi là người hay bàn bạc chuyện phải trái, khen chê đối với người khác. Bản Truyện Kiều chú giải của Lê Văn Hòe còn nói thêm, người thị phi là “người lấy trái làm phải, lấy dở làm hay, ý nói người không biết gì”.

Bài Than thân của Nguyễn Hữu Chỉnh có câu rằng:
Kẻ yêu, nên ít bề cao hạ,
Người ghét, càng nhiều tiếng thị phi.

“Cao hạ” tức là cao thấp, trên dưới, ý nói phân bì, so sánh hơn thua.


★ Thịnh soạn ★

“Thịnh soạn”, chữ Hán viết là 盛饌, trong đó:

– “Thịnh” là nhiều, đầy đủ, đông đúc, phong phú, ta thường dùng trong hưng thịnh, thịnh vượng.
– “Soạn” là cỗ, tiệc, cỗ bàn, chỉ việc ăn uống, tiệc tùng.

“Thịnh soạn”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “bữa tiệc to” (danh từ). Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì giảng “thịnh soạn” là tính từ chỉ “có nhiều món ngon và được chuẩn bị chu đáo, lịch sự”.

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức* giảng từ này khá kỹ, ghi nhận cả nét nghĩa là tính từ lẫn danh từ. Cụ thể:
– (tính từ): linh đình, có nhiều thức ăn ngon. Ví dụ: Bữa ăn thịnh soạn.
– (danh từ): tiệc lớn, cỗ bàn to. Ví dụ: Dưa muối mà có tình thì quý hơn thịnh soạn.

Hiện nay có vẻ như ta thường dùng “thịnh soạn” làm tính từ hơn là danh từ, như “bàn tiệc thịnh soạn”, “bữa cơm thịnh soạn”. Phải chăng vì ta đã hiểu “soạn” là chuẩn bị, như trong từ “sửa soạn” – chứ không biết “soạn” là cỗ, tiệc, cỗ bàn?

“Thịnh soạn” gần như là trường hợp duy nhất mà chữ “soạn” này còn dùng. Các trường hợp “biên soạn”, “soạn thảo”, “soạn giả”,… là một chữ “soạn” khác, chữ Hán viết là 撰.
___________
*Lê Văn Đức dùng “thạnh soạn” thay vì “thịnh soạn”. Mối quan hệ giữa thạnh ~ thịnh cũng tương tự chánh ~ chính, hành ~ hình, thanh ~ thinh, v.v..


★ Thù lao ★

“Thù lao”, chữ Hán viết là 酬勞, trong đó:

– “Thù” là đền đáp lại. Chữ “thù” vốn có nghĩa là chủ mời khách uống rư ợu (còn khách rót rư ợu lại cho chủ thì gọi là “tạc – 酢”, nên “thù tạc” có nghĩa là có đi có lại), mở rộng nghĩa thành đền đáp, trả công.
– “Lao” là nỗi nhọc nhằn, vất vả; đem sức mà làm việc gì cũng gọi là “lao”.

“Thù lao” do đó mang nghĩa là đền đáp sự nhọc nhằn của ai đó, báo đáp họ vì đã ra sức làm việc cho mình, thường là bằng t iền hoặc của. Ở đời, phàm trả hay nhận “thù lao”, đều nên tự hỏi, “thù” này đã bõ công “lao” chưa, “lao” này đã xứng với “thù” chưa. Như vậy người trả hay người nhận thù lao đều thấy vui. Chênh lệch giữa “thù” với “lao” càng ít thì càng vui vậy.


★ Thư hùng ★

Có bạn nhắn hỏi mình nghĩa của từ “thư hùng”, thì từ này có chữ Hán là 雌雄, trong đó:

– “Thư” là con mái, con cái của các loài chim thú, cũng dùng để chỉ vẻ yếu mềm.

– “Hùng” là con trống, con đực của các loài chim thú, là biểu tượng của sức mạnh.

Chúng ta có từ “anh thư” (英雌) để chỉ người phụ nữ xinh đẹp dũng cảm, và dùng “anh hùng” (英雄) để chỉ người đàn ông mạnh mẽ dũng cảm, xuất chúng. (Anh – 英 là hoa của cây, là thứ hoa tốt nhất, tỉ dụ người tài năng xuất chúng, theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh.) Cũng phải nói thêm rằng, ngày nay bên cạnh từ “anh thư” (thường dùng đặt tên các bạn nữ) thì người ta quen dùng “nữ anh hùng”.

Trở lại với “thư hùng”, từ này mang ý nghĩa trống và mái, đực và cái, được dùng để chỉ sự so sánh hơn thua, mạnh yếu, (“hùng” là phái mạnh, “thư” là phái yếu), như “một trận thư hùng” là một trận hơn thua mạnh yếu.

Trong Thiên Nam ngữ lục có câu:

Hiệp nhau Cảnh Dị giao phong,
Dự trăm trận đánh, thư hùng chưa phân.

Trong Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu có câu:

Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.

雌雄未決,
南北對壘。

(Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.*)

Từ “thư hùng” nói Nôm là “sống mái”, “sống” là con đực, con trống (vẫn còn dùng trong từ “gà sống” chỉ gà trống), ta vẫn quen dùng “một trận sống mái”, “sống mái một phen”.

Các bạn có thể xem giảng nghĩa của nhiều từ vựng như vầy trong sách “Chữ xưa còn một chút này” của Ngày ngày viết chữ nha. Sách có trên các sàn thương mại điện tử, các bạn tìm tên sách là ra hà.

___________

*Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Văn Nguyên chỉnh lí (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập II, Văn học thế kỉ X – thế kỉ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1976).


★ Tinh anh ★

Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “tinh anh” (精英) là “cái phần thuần tuý đẹp tốt, cái tốt nhất, quý nhất trong một vật”.

– “Tinh” (精) nghĩa là gạo đã giã trắng, sạch (bộ mễ 米 – hạt gạo biểu ý), mở rộng nghĩa chỉ những gì đã lọc hết chất xấu. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “phàm đem vật ngoài trừ đi cho nó sạch hết cũng gọi là tinh” và “vật gì đã lọc bỏ hết chất xấu rồi đều gọi là tinh”. Đây cũng là chữ “tinh” trong tinh hoa, tinh tuý, tinh vi, tinh xảo, v.v.. Có câu “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (貴乎精不貴乎多) hoặc “quý tinh bất quý đa” (貴精不貴多) nghĩa là quý ở chỗ tốt, giỏi chứ không phải quý ở chỗ nhiều.

– “Anh” (英), Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng là “Hoa các loài cây cỏ (bộ thảo 艹 biểu ý). Vì thế nên vật gì tốt đẹp khác thường đều gọi là anh”, cũng chỉ “tài năng hơn người” và “chất tinh tuý của vật”. Đây là chữ “anh” trong anh hùng, anh hào, anh tài, anh thư, anh tú, v.v..

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh.”

Ca dao có câu rằng:
Dù ai buôn bán nhiều bề,
Không bằng chỉ có một nghề tinh anh.

(Câu này cũng có nghĩa tương tự câu “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”.)


★ Tinh sương ★

“Tinh sương”, chữ Hán viết là 星霜, trong đó:

– Tinh là sao, là chữ “tinh” trong hành tinh, vệ tinh, tinh cầu,…
– Sương là hơi nước ngưng tụ đọng thành hạt nhỏ đọng trên cây cỏ hoặc lơ lửng gần mặt đất, như sương mù, sương muối, sương móc,…

“Tinh sương” nghĩa đen là sao và sương, chỉ thời điểm trời tờ mờ sáng, khi đêm chưa chuyển hẳn sang ngày, vẫn còn thấy sao và sương.

Ngày trước, “tinh sương” còn dùng để chỉ quãng thời gian một năm. Cụ thể, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng: “Sao một năm đi quanh trời một vòng (người xưa tưởng như thế), sương mỗi năm mỗi có, vậy một tinh một sương là một năm”. Từ điển Nguyễn Quốc Hùng cũng giảng “tinh sương” là “sao và sương, chỉ một năm. Vì theo người xưa, sao trên trời một năm đi được một vòng, còn sương thì một năm trở về một lần.”

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi nhận cả hai nét nghĩa của “tinh sương” như sau: “Sao và sương mù. Sáng sớm, lúc trời còn mờ mờ, tức còn sao và mù sương (sáng tinh sương). Năm, một năm (trải mấy tinh sương).” “Trải mấy tinh sương” tức là trải mấy năm, tương tự như cách dùng “mấy tinh sương” của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long thành hoài cổ:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Còn bài Bính Dần ngũ nguyệt dĩ Quảng Bình án sát sứ mông thăng hồi kinh Học bộ thị lang lâm hành lưu giản của Nguyễn Phúc Ưng Bình thì có câu:
Hoành Mâu tủng thuý Lệ giang thanh,
Tứ ngũ tinh sương kỷ hoạn tình.

橫鍪聳翠麗江清,
四五星霜紀宦情。
Nghĩa là:
Núi Ðâu Mâu cao và xanh biếc, nước sông Nhật Lệ trong vắt,
Làm quan bốn năm năm ở đây vương vấn biết bao tình.

Có thể thấy là, ngày nay chúng ta chủ yếu dùng “tinh sương” để chỉ buổi sớm mai, nhưng ngày trước, từ này còn được dùng để chỉ quãng thời gian một năm vậy.


★ Trắc ẩn ★

Trắc ẩn, chữ Hán viết là 惻隱, trong đó:

– Trắc là thương xót, xót xa, trong chữ Hán có bộ tâm (⺖) nghĩa là trái tim – chỉ cảm xúc của con người. Xin phân biệt với các chữ trắc mà ta thường gặp hơn như trắc (仄) trong bằng trắc hay trắc (測) trong trắc nghiệm, bất trắc,…

– Ẩn là giấu kín, che đậy, trái nghĩa với hiện (現), như ẩn danh (隱名), bí ẩn (秘隱), tiềm ẩn (潛隱). Ngoài ra, theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, “ẩn” còn một nét nghĩa khác là xót thương. Sách giảng về nét nghĩa này như sau: “Xót, nghĩ. Như Mạnh tử 孟子 nói ‘Vương nhược ẩn kì vô tội nhi tựu tử địa’ 王若隱其無罪而就死地 nhà vua nếu xót nghĩ đến kẻ không có tội mà tới chỗ chết”*. Nét nghĩa xót thương này chính là nét nghĩa trong “trắc ẩn”.

Trắc ẩn hiểu chung là thương xót, trong đó cả “trắc” và “ẩn” đều có nghĩa là thương xót, xót xa, đau lòng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “trong lòng thương xót không nỡ làm khổ ai hay trông thấy sự khổ của người khác gọi là trắc ẩn 惻隱”. Hán Việt Từ điển Từ nguyên của Bửu Kế cũng giảng “ẩn” trong trắc ẩn nghĩa là đau đớn, thương xót. Tương tự, Đại tự điển Hán Việt Hán ngữ cổ và hiện đại của Trần Văn Chánh giảng “ẩn” trong trắc ẩn nghĩa là đau lòng, thương xót. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên giảng trắc ẩn là (tình cảm) thương xót.

Có thể vì nét nghĩa giấu kín, che đậy của “ẩn” quá phổ biến, trong khi nét nghĩa thương xót của “ẩn” ít được biết đến nên đôi khi chúng ta, cũng như có trang từ điển online nhầm trắc ẩn là “thương xót một cách kín đáo trong lòng”. Thật ra không cần kín đáo, lòng thương xót mà bày tỏ ra, thể hiện ra (qua ánh mắt, qua vẻ mặt, qua hành động,…) thì vẫn là lòng trắc ẩn.
___________
* Đoạn này nằm trong Lương Huệ Vương thượng (梁惠王上) của sách Mạnh Tử (孟子).


★ Trầm kha ★

“Trầm kha”, chữ Hán viết là 沈疴 hoặc 沈痾, trong đó:

– “Trầm” là chìm, như trong thăng trầm (升沈) là lên cao và chìm xuống. Ngoài ra trầm còn có nghĩa là sâu, nặng hay mở rộng nghĩa chỉ mức độ nhiều, sâu sắc, kĩ lưỡng như trong trầm trọng (沈重) là sâu và nặng, trầm tư (沈思) là suy nghĩ kĩ.

– “Kha” là bệnh nặng, bệnh kéo dài lâu ngày.

“Trầm kha” là bệnh nặng, bệnh âm ỉ, dai dẳng, khó chữa. Hiện nay “trầm kha” thường được dùng như tính từ mà ta hay bắt gặp trong cụm “bệnh trầm kha” hay “căn bệnh trầm kha”.

“Trầm kha” là bệnh nặng, bệnh âm ỉ, dai dẳng, khó chữa. Hiện nay “trầm kha” thường được dùng thành cụm “bệnh trầm kha” hay “căn bệnh trầm kha” như “Cô đơn tựa như căn bệnh trầm kha của con người”. Trong cụm “bệnh trầm kha”, “trầm kha” là tính từ bổ nghĩa cho danh từ “bệnh”, tức “trầm kha” đã xảy ra hiện tượng chuyển loại (từ danh từ thành tính từ). Cũng như “thịnh soạn” vốn có nghĩa là “bàn ăn lớn với nhiều món ăn” nhưng đã được chuyển loại để chỉ mức độ nhiều, tươm tất của một bữa ăn, bởi vậy ta vẫn nói “bàn ăn thịnh soạn” hay “bữa tiệc thịnh soạn”. 


★ Trích tiên ★

“Trích tiên”, chữ Hán là 謫仙, trong đó:

– “Trích”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “phạt kẻ có t.ội, khiển trách, phàm quan lại bị cách chức và đày đi nơi biên viễn đều gọi là trích”.
– “Tiên”, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng là “những người luyện được phép trường sinh, người tu theo đạo Lão, luyện được phép sống đời, cốt cách thanh thản sung sướng, dung mạo đẹp đẽ, yên vui ngoài cõi đời, biết nhiều phép biến hoá”. Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì giảng tiên là “nhân vật tưởng tượng trong truyện thần thoại, đẹp khác thường, có những phép mầu nhiệm, sống rất yên vui”.

“Trích tiên” theo đó nghĩa là tiên mắc đoạ, tức là vị tiên do có lỗi mà bị trời làm cho sa vào kiếp sống cực khổ của người phàm. Đào Duy Anh còn giảng “trích tiên” cũng là “tiếng khen người cao khiết”, như thi nhân Lý Bạch cũng được xưng tụng là “trích tiên”.

Bài Vịnh Ngọc Hồ tự của Trần Bá Lãm có câu “Địa bất Bồng Lai ẩn trích tiên” (地不蓬萊隱謫仙), nghĩa là chẳng phải chốn Bồng Lai vẫn náu người tiên bị đày.

Trong Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát viết:
Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên;
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng hoạ thì thầm Lão Đỗ.

Ở đây “Trích Tiên” chỉ Lý Bạch, “Lão Đỗ” là Đỗ Phủ.

(Phân biệt chữ “trích” này với “trích – 摘” nghĩa là ngắt lấy, chọn ra như “trích dẫn”, “trích lục”, hoặc “trích – 滴” nghĩa là giọt nước, nhỏ giọt như “trích thuỷ xuyên thạch” – giọt nước xoi lủng đá”.)


★ Triền miên ★

Triền miên, chữ Hán viết là 纏綿, trong đó:

– Triền là quấn quanh, vây bọc, bó lại như triền túc (纏足) là bó chân, triền phược (縛纏) là chằng trói, mắc luỵ với trần tục (Hán Việt từ điển – Đào Duy Anh).

– Miên là bông, xơ bông như miên dương (綿羊) chỉ loài cừu (do lông cừu có thể dùng làm sợi dệt). Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “Bông mới. Cho kén vào nước sôi rồi gỡ ra chỗ nào săn đẹp gọi là miên 綿, chỗ nào sù sì* gọi là nhứ 絮”. Ngoài ra, miên còn mang nghĩa kéo dài, liên tục không dứt như trong miên man (綿蠻), liên miên (連綿).

“Triền miên” ta hiểu là quấn quýt mãi không dứt, hiện nay thường đường dùng để chỉ tình trạng gì đó kéo dài dai dẳng, khó chấm dứt như “bệnh tật triền miên”, “lo lắng triền miên”, “mưa triền miên”.

Trong bài Đồng tử mục đường lang (Chú bé chăn bọ ngựa) của Cao Bá Quát có câu:
Đồng tử mục đường lang,
Hệ chi dĩ tố ty.
Tố ty phục triền miên,
Tất mệnh khô thụ chi.

童子牧螳螂,
繫之以素絲。
素絲復纏綿,
畢命枯樹枝。
Tạm dịch:
Chú bé chăn bọ ngựa,
Buộc bằng sợi tơ con.
Tơ kia chằng chịt quấn,
Bỏ mạng nơi cành mòn.

Trong bài Nhắn nhe, Tế Hanh viết:
Đất liền tình chửa bình yên,
Lựa là nước chảy triền miên mấy giòng**.

Ca dao cũng có sử dụng từ “triền miên”, chẳng hạn:
1. Chiều chiều nhớ xóm nhớ làng,
Nhớ gốc đa, nhớ chùa làng nhớ em.
Ai xui chinh chiến triền miên,
Cho anh xa xứ cho anh võ vàng.

2. Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con khôn lớn, nên công với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

___________
* Cũng viết là “xù xì”. Đây là trường hợp lưỡng khả.
** Nay quen viết là “dòng”.


★ Truy nguyên ★

“Truy nguyên”, từ Hán Việt, chữ Hán là 追源, trong đó:

– “Truy” là theo, đuổi theo, tìm tòi, tìm trở ngược việc đã qua gọi là “truy”, như truy cầu, truy phong, truy vấn,…
– “Nguyên” là nguồn nước, ngọn nguồn, là nơi mà từ đó nảy sinh ra một sự vật sự việc, như căn nguyên, khởi nguyên, ẩm thuỷ tư nguyên (飲水思源) nghĩa là uống nước nhớ nguồn.

“Truy nguyên”, Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giảng là “theo ngược lên đến nguồn suối”, tức là tìm ra nguyên nhân của sự vật hoặc tìm về chỗ bắt đầu sự việc.

Trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca – một tác phẩm của Nguyễn Liên Phong, dài 6.750 câu lục bát, nói về đất và người Nam Bộ, xuất bản lần đầu năm 1909 – có rất nhiều câu dùng từ “truy nguyên”:

1. Nhà Bè sông gọi Phước Long,
Truy nguyên sự tích tiếng dùng không sai.

(Câu này nói về Gia Định)

2. An Hội sở tại Châu Thành,
Truy nguyên thuở trước đất ranh ba làng.

3. Truy nguyên tích trước đã xa,
Đất nhằm cuộc tốt trổ ra sĩ hiền.

4. Truy nguyên cựu tích tỏ tường,
Thuở hai ông cố lắm đường gian nan.

(Ba câu này nói về Bến Tre)

5. Sông con giáp nước Sân Trông,
Truy nguyên thuở trước bởi ông Vân hầu.

(Câu này nói về Mỹ Tho)

6. Sông Mân Thích, cồn Cái Nhum,
Truy nguyên sự tích lâu năm chạnh sầu.

(Câu này nói về Vĩnh Long)

7. Truy nguyên sự tích ông Tồn,
Người Mên vua đặt Nguyễn Tồn tánh danh.

(Câu này nói về Trà Vinh)


★ Truyền thừa ★

“Truyền thừa”, chữ Hán viết là 傳承, trong đó:
– Truyền là trao cho, đem của người này trao cho người kia. Đây là chữ “truyền” trong bí truyền 祕傳, gia truyền 家傳, lưu truyền 流傳, truyền tụng 傳頌,…
– Thừa là vâng theo, cũng có nghĩa đón lấy, nhận lấy, chịu, hứng, hoặc là nối dõi, kế tục. Đây là chữ “thừa” trong thừa hành 承行, thừa kế 承繼, thừa nhận 承認,…

Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “đời trước trao lại cho đời sau là truyền, đời sau nhận chịu lấy là thừa”. Từ này thường gặp trong các nội dung liên quan đến Phật giáo.

Thơ Phạm Thiên Thư có câu:
Hạt lành bao kiếp truyền thừa,
Xuân nay lại trổ trang thơ kinh Hiền.


★ Tuệ tinh ★

Tuệ tinh, chữ Hán viết là 彗星, trong đó:

– “Tuệ” là cây chổi.

– “Tinh” là ngôi sao, vì sao, cũng chỉ chung các thiên thể sáng như sao, như chiêm tinh (占星) là quan sát các vì sao để biết các điềm tốt xấu. 

Các hành tinh (行星) trong hệ mặt trời (trừ Trái Đất) cũng có tên gọi Hán Việt lần lượt là Thuỷ Tinh (水星) – sao Thuỷ, Kim Tinh (金星) – sao Kim, Hoả Tinh (火星) – sao Hoả, Mộc Tinh (木星) – sao Mộc, Thổ Tinh (土星) – sao Thổ, Thiên Vương Tinh (天王星) – sao Thiên Vương và Hải Vương Tinh (海王星) – sao Hải Vương. Sao nhỏ mà nhiều gọi là tinh nên tinh cũng được dùng để chỉ những gì nhỏ bé, vụn vặt như linh tinh (零星). Chữ “linh” cũng có nghĩa là lẻ, vụn vặt.

Tuệ tinh là sao chổi, là thiên thể có phần đuôi phát sáng, kéo dài như hình cây chổi. Ngoài tuệ tinh, sao chổi còn có cách gọi khác là trửu tinh (箒星*), trong đó trửu (箒) cũng có nghĩa là cây chổi.

___________

*箒星 còn có cách viết khác là 帚星.


★ Tung hô ★ 

Tung hô, chữ Hán viết là 嵩呼, trong đó:

– “Tung” là tên một ngọn núi cao lớn trong Ngũ Nhạc (五岳)*, vì vậy người ta dùng “tung” để chỉ thế núi cao. Theo điển tích, Hán Vũ đế lên núi Tung dạo chơi được quần thần và bách tính hô vang vạn tuế ba lần, vì vậy sau này chúc tụng vua chúa được gọi là tung chúc (嵩祝).

– “Hô” là gọi to, kêu to như hô hoán (呼喚), xưng hô (稱呼), hô ứng (呼應).

Tung hô nghĩa đen là hô vang trên núi Tung, sau được dùng để chỉ hành động cùng hô to chúc tụng vua chúa bất kể có đang ở núi Tung hay không, như trong Thiên Nam ngữ lục, câu 6.543-6.544 có viết:

Thôi bèn thánh giá hoàn đô,
Bách quan cùng đến tung hô chúc mừng.

Ngày nay tung hô thường được dùng để chỉ hành động hô to những lời khen, lời hoan nghênh nói chung như “được người đời tung hô”, “tung hô cuồng nhiệt”.

___________

*Ngũ Nhạc (五岳) là năm ngọn núi lớn ở Trung Hoa gồm Tung Sơn (嵩山), Thái Sơn (泰山), Hoa Sơn (華山), Hành Sơn (衡山), Hằng Sơn (恆山).


★ Vũ trụ ★

“Vũ trụ”, chữ Hán viết là 宇宙, trong đó:

– Vũ là khắp hết không gian; bốn phương và trên dưới là vũ;
– Trụ là suốt hết thời gian; xưa qua nay lại là trụ.

“Vũ trụ” chỉ không gian và thời gian, không gian vô tận và thời gian vô hạn, chỉ chung hết thảy trong trời đất, đó là ý nghĩa của từ “vũ trụ” trên phương diện từ ngữ.

(Xin phân biệt chữ “vũ – 宇” này với các chữ: vũ – 武 – võ, vũ – 羽 – lông chim, vũ – 舞 – múa, vũ – 雨 – mưa, v.v..)


★ Xuất xử ★

“Xuất xử”, chữ Hán là 出處*. “Xuất” ở đây chỉ việc ra làm quan, ra giúp đời, còn “xử” là ở ẩn, không ra làm quan, không ra giúp đời.

“Xuất xử” là ra làm quan và ở ẩn, đây là hai thái độ của nhà Nho xưa.

Trong Tự thuật bài 2 – Hội gió mây, Nguyễn Công Trứ viết:
Xưa nay xuất xử thường hai lối,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.

Nguyễn Trãi trong bài Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí thì viết:
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
Niên lai xuất xử lược tương đồng.

Nghĩa là Chúng ta đều là khách luân lạc chân trời, xưa nay xuất hay xử cũng giống nhau cả thôi.

Thường thì nhà Nho xưa sẽ chọn một trong hai, hoặc “xuất” hoặc “xử”, hoặc sau khi “xuất” thì cuối cùng cũng lui về “xử”. Nhưng cũng có những hình tượng nhà Nho khác biệt hơn chút, không “xuất” nhưng cũng không “xử” hẳn. Chẳng hạn nhân vật ông quán trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Vốn là một người “kinh sử đã từng”, nhưng sau khi nhìn rõ “lẽ gh.ét thương” ở đời, ông quán không chọn “xuất” cũng không chọn “xử” hẳn, ông đi làm kinh doanh. Ông mở một quán ăn rất chi là hẳn hòi:

Quán rằng: Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương.
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng.

___________
* 出處 cũng có âm là “xuất xứ”, chỉ nguồn gốc, nơi sinh ra một điều gì đó.


★ Xung yếu ★

“Xung yếu”, chữ Hán viết là 衝要, trong đó:

– “Xung” là con đường cái (ngoài ra chữ “xung” này còn có nghĩa là xông lên, hướng thẳng về phía trước như “xung kích”, “xung phong”);
– “Yếu” là quan trọng, thiết đáng.

“Xung yếu” vốn có nghĩa là con đường quan trọng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “nơi nào là chỗ giao thông tấp nập gọi là xung yếu”, mở rộng nghĩa chỉ nơi “có vị trí đặc biệt quan trọng” (theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên), ví dụ quãng đê xung yếu, vị trí xung yếu.

Nguyễn Hiển Tông (tức Nguyễn Phúc Chu) có bài Ải Lĩnh xuân vân (Mây xuân trên Ải Lĩnh) mở đầu bằng câu: “Việt Nam xung yếu thử sơn điên” (越南衝要此山巔) nghĩa là nơi đặc biệt quan trọng của Việt Nam là đỉnh núi này (“điên” 巔 có nghĩa là đỉnh núi). Ải Lĩnh ở đây chính là núi/đèo Hải Vân.


★ Xuyên tạc ★

Xuyên tạc, chữ Hán viết là 穿鑿, trong đó:

– “Xuyên” là xâu qua, xỏ qua như xuyên giáp (穿甲), xuyên thấu (穿透).

– “Tạc” là cái đục trong nghề chạm khắc, và cũng dùng để chỉ hành động dùng đục để đẽo gọt* như tạc tượng (鑿像), ghi lòng tạc dạ.

Xuyên tạc nghĩa đen là xâu xỏ đẽo gọt. Khi ta đẽo gọt lời của người khác tức là làm cho lời nói của người ta nói không còn như ban đầu nữa thì đó chính là xuyên tạc. Vì vậy xuyên tạc có nghĩa bóng dùng để chỉ hành vi sửa đổi, thêu dệt lời nói hoặc thông tin sao cho sai sự thật để nhằm dụng ý xấu như “xuyên tạc sự thật” hay “Anh cứ khéo xuyên tạc.”.

___________

*Hiện tượng một từ vừa dùng để gọi tên dụng cụ vừa dùng để chỉ hành động sử dụng dụng cụ đó có thể kể đến như cưa (cái cưa – cưa gỗ), viết (cây viết – viết bài), cuốc (cây cuốc – cuốc đất).


★ Vãn hồi ★

“Vãn hồi”, chữ Hán viết là 挽回 (hoặc 挽囘), trong đó:

– “Vãn” nghĩa là kéo lại, như cứu vãn (救挽) – cũng dùng vãn cứu – nghĩa là việc xong rồi mà dùng cách để vớt lại. Chữ “vãn” này khác với chữ vãn (晚) nghĩa là buổi chiều, như tảo vãn (早晚) là sớm tối, vãn bối (晚輩) là lớp người sinh sau, vãn cảnh (晚景) là cảnh chiều, tình cảnh lúc về già.
– “Hồi” nghĩa là về, trở về, như khứ hồi (去回) là đi và về, phản hồi (返回) là quay về, trở lại, nay thường dùng với nghĩa trả lời lại một cách chính thức, phục hồi (復回) là trở lại tình trạng cũ, thu hồi (收回) là lấy về, gom về.

Vãn hồi nghĩa là kéo về, đem về, quay lại. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “vãn hồi” nghĩa là kéo trở lại. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng “vãn hồi” nghĩa là làm cho tình trạng trở lại bình thường như trước.


★ Vĩ thanh ★

“Vĩ thanh”, chữ Hán viết là 尾聲, trong đó:

– “Vĩ” là đuôi như ngư vĩ (魚尾) là đuôi cá, long đầu xà vĩ (龍頭蛇尾) là đầu rồng đuôi rắn*. Vĩ cũng có nghĩa là cuối, phần cuối như niên vĩ (年尾) là cuối năm, nguyệt vĩ (月尾) là cuối tháng.

– “Thanh” là tiếng như âm thanh (音聲), phong thanh (風聲), truyền thanh (傳聲).

“Vĩ thanh” là âm thanh về cuối, âm thanh sau rốt. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng vĩ thanh là “tiếng sau chót của một bài nhạc”. “Vĩ thanh” còn thường được dùng để chỉ đoạn kết của một tác phẩm văn chương. Như trong cuốn Hành trình người viết (Christopher Vogler – Trần Minh dịch) mà Ngày ngày viết chữ giới thiệu, từ “vĩ thanh” được dùng để chỉ đoạn kết của tác phẩm.
___________
* Biểu thị sự việc thuở ban đầu thì lớn lao nhưng về sau thì nhỏ bé, tương tự câu thành ngữ “đầu voi đuôi chuột”.


★ Ỷ lại ★

“Ỷ lại”, chữ Hán viết là 倚賴, trong đó:

– “Ỷ” là dựa, tựa vào như ỷ môn (倚門) là tựa vào cửa, ỷ thiên (倚天) là dựa vào trời, ỷ thế (倚勢) là dựa vào sức mạnh. Ca dao có câu rằng: “Trăng kia chớ ỷ bóng cao / Một khi mưa phủ cũng vào trong mây”. Trong sách “Cổ mỹ từ” của tụi mình có giới thiệu từ ỷ lư (倚閭), nghĩa là “cha mẹ dựa cổng trông con về”.

– “Lại” là nương nhờ, cậy nhờ như ngưỡng lại (仰賴) nghĩa là trông cậy. Chữ này hiện nay ít dùng, hầu như chỉ còn gặp trong tổ hợp ỷ lại (倚賴). Xin phân biệt với chữ lại (吏) chỉ người làm việc cho triều đình/nhà nước như quan lại (官吏), thừa phát lại (承發吏).

“Ỷ lại” nghĩa chung là trông vào, dựa vào người khác, thường dùng để mô tả trường hợp không chịu cố gắng, không tự dựa vào sức mình mà chỉ trông chờ, nương tựa, dựa dẫm vào người khác.


★ Yếm thế ★

“Yếm thế”, chữ Hán viết là 厭世, trong đó:

– “Yếm” là chán, ghét, như “yếm cựu hỉ tân” (厭舊喜新) là chán cái cũ, thích cái mới.
– “Thế” là đời, như “thế sự” (世事) là việc trên đời, “thế nhân” (世人) là người đời, “thế thái” (世態) là thói đời.

“Yếm thế” nghĩa là chán đời, chán ghét sự đời, có tư tưởng chán đời, xa lánh việc đời. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh có bàn về “yếm thế chủ nghĩa” như sau: “Một thứ chủ nghĩa cho rằng thế giới là tối ác, tối khổ, cho nên chán nản, tức là chủ nghĩa bi quan (pessimisme)”.

Trong bài Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư (Khóc Dương Khuê), Nguyễn Khuyến viết:
Dư khởi bất yếm thế,
Nhi công tranh thượng tiên.

予豈不厭世,
而公爭上仙。
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao* đã mải lên tiên.

/ Thẻ: chuyện viết chữ, tiếng Việt, từ Hán Việt

Chia sẻ bài viết

About the Author:Nguyễn Thuỳ Dung

Bài viết liên quan

Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

Th9152025
Vô lệ khốc văn chương – Cùng đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du

Vô lệ khốc văn chương – Cùng đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du

Th9042025
Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

Th8262025

Bài viết gần đây

  • Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

    Làm gì khi trong đầu người viết có quá nhiều hướng triển khai?

  • Nỗ lực từng chút, ngòi bút nở hoa – Vài suy nghĩ vụn vặt

    Nỗ lực từng chút, ngòi bút nở hoa – Vài suy nghĩ vụn vặt

  • Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

    Văn dĩ tải đạo – Ngày ngày viết chữ tuyển chọn và giới thiệu

  • Thiên hạ hà nhân – Từ ngữ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

    Thiên hạ hà nhân – Từ ngữ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

  • Tổng hợp sách của Ngày ngày viết chữ (2025)

    Tổng hợp sách của Ngày ngày viết chữ (2025)

  • “Thị phi nào đến cõi yên hà” và thái độ “mặc thế tình” của Nguyễn Trãi

    “Thị phi nào đến cõi yên hà” và thái độ “mặc thế tình” của Nguyễn Trãi

  • Gia đình vui vẻ – Thêm một bộ sách tranh do Ngày ngày viết chữ dịch

    Gia đình vui vẻ – Thêm một bộ sách tranh do Ngày ngày viết chữ dịch


    CHÚNG TA LÀ NHỮNG CON CÁ NHỎ, MỖI NGÀY ĐỀU MỞ MANG.


    Đăng ký bản tin để mỗi khi có bài viết hữu ích hoặc sự kiện hay, Ngày ngày viết chữ sẽ gửi cho bạn qua e-mail.


    © Copyright 2017-2025 Ngày ngày viết chữ
    E-mail: ngayngayvietchu@gmail.com

    Chính sách riêng tư

    Kết nối trang